Cuộc đời nhiều lo âu, do đâu?
Đó là tặng vật
Cho cõi phù du…
Vì đâu chúng ta luôn bận rộn, cuống cuồng, hối hả với những lo âu hằng
ngày? Có phải phần lớn những phức tạp, rắc rối, những lo âu hằng ngày
của chúng ta đều liên quan đến chuyện tiền bạc, nhằm giải quyết những
nhu cầu vật chất hằng ngày? Mọi băn khoăn, suy nghĩ, thắc mắc, lo lắng…
hàng ngày hàng giờ của chúng ta phải chăng chỉ xoay quanh những chuyện
cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện đi lại?
Câu hỏi trên khiến chúng ta phải nhìn nhận một thực tế: Tại sao con
người ít khi biết đủ? Tại sao lúc nào cũng phải tìm cách thu gom, tích
cóp? Phần lớn nguyên nhân lâu nay được quy cho lòng tham vô đáy của con
người. Tuy nhiên, chúng tôi thiết nghĩ, nguyên nhân trước tiên là do nỗi
lo sợ bị thiếu thốn.
Cuộc sống vốn dĩ là không thể biết trước! Chúng ta chỉ có thể biết những
gì đã xảy ra trong quá khứ và những gì đang diễn ra ở hiện tại, còn
cuộc sống tương lai sẽ như thế nào thì không ai dự đoán cụ thể hay chắc
chắn được. Ngay cả khi chúng ta mong muốn một cuộc sống phẳng lặng bình
yên, thì những bão giông của cuộc đời cũng có thể bất chợt đổ xuống đầu
mình. Chính vì nỗi lo lắng rằng tương lai mình có thể gặp chuyện bất
trắc, có thể lâm vào cảnh thiếu thốn mà con người mới luôn tìm cách thu
gom, tích cóp.
Nhưng thu gom, tích cóp bao nhiêu cũng không cảm thấy đủ. Từ đây, khái
niệm “lòng tham vô đáy” mới xuất hiện. Nhu cầu vật chất của chúng ta là
không có giới hạn, thành thử lại càng phải thu gom, tích cóp để thỏa mãn
nhu cầu của bản thân mình. Từ đó, cuộc sống trở thành những bon chen,
giành giật không hơn không kém. Bạn thử nghĩ xem, cuộc sống của chúng ta
trên cõi đời này chỉ vỏn vẹn có bao nhiêu năm – không dài lâu bằng cuộc
sống của một loài cây cổ thụ nữa, nhưng tại sao lại phải vất vả, mệt
mỏi đến thế? Làm sao để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này?
Vẫn biết rằng, cuộc sống quanh ta không thiếu gì những người còn nghèo
khổ. Vẫn biết rằng, hằng ngày có biết bao nhiêu người lương thiện phải
“đổ mồ hôi, sôi nước mắt” mà vẫn chưa đủ ăn. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ
đề cập đến trong một dịp khác. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nói đến những
con người không hề bị áp lực của những gánh nặng cuộc sống. Họ vẫn có
của ăn của để, không thiếu thốn chi. Thế nhưng, họ lại coi việc chạy
theo nhu cầu vật chất là điều đáng quan tâm bậc nhất trong cuộc sống,
ngoài ra không có điều gì khác đáng để quan tâm cả!
Ý nghĩa cuộc sống của bạn chắc chắn không thể đo đếm bằng khối lượng hay
giá trị tài sản mà bạn sở hữu. Trong cuộc sống, mọi thứ luôn biến đổi.
Ngày hôm nay tài sản nằm trong tay bạn, nhưng ngày mai nó có thể nằm
trong tay người khác. Nhận thức được tính chất mong manh đó, biết nỗ lực
tự giải thoát mình khỏi những ràng buộc của nhu cầu vật chất bao nhiêu,
chúng ta càng dễ dàng cảm nhận ý nghĩa của cuộc sống bấy nhiêu!
Lại Thế Luyện
Thế giới trong ta...
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có
lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình. Thay vì đặt
những câu hỏi về thế giới quanh ta, mỗi chúng ta đều có một thời điểm
bất chợt nào đó quay nhìn lại chính mình và đặt ra những câu hỏi đại
loại như “Ta là ai?”, “Tại sao ta sinh ra và chết đi?”, “Đời sống của ta
có ý nghĩa gì?”...
Khi nhận thức về chính bản thân mình, chúng ta luôn vấp phải những trở
ngại hầu như không thể vượt qua. Chẳng hạn, mọi phương thức hình thành
các khái niệm mô tả mà ta đã từng áp dụng cho thế giới vật chất đều trở
nên không phù hợp để mô tả về bản thân chúng ta. Khi nhận thức về một sự
vật, ta luôn có thể thấy được sự vật ấy hình thành từ bao giờ, hình
thành như thế nào, tồn tại trong bao lâu và sẽ hư hoại trong những điều
kiện nào. Nhưng với tâm thức chúng ta thì hoàn toàn khác. Chúng ta không
thể nói được là ta đã bắt đầu hiện hữu từ bao giờ. Tuy có mối tương
quan với thể xác vật lý, nhưng ít người trong chúng ta tin rằng tâm thức
ta chỉ bắt đầu hiện hữu từ lúc thể xác này sinh ra và sẽ biến mất hoàn
toàn sau khi thể xác này tan rã. Có nhiều lý do để chúng ta không thể
chấp nhận một quan niệm như vậy, nhưng ngay cả khi ta chấp nhận thì điều
đó dường như lại sẽ làm nảy sinh hàng loạt nghi vấn khác...
Một trong những ưu thế lớn nhất của con người là chúng ta có ngôn ngữ và
chữ viết. Nhờ đó mà kiến thức và kinh nghiệm của mỗi chúng ta đều có
thể chia sẻ với tất cả những người cùng thế hệ cũng như lưu lại cho
nhiều thế hệ về sau. Đồng thời, ta cũng thừa hưởng được vô số những kiến
thức và kinh nghiệm của biết bao thế hệ trước đây.
Trong chuỗi trao truyền đó, đã có quá nhiều dữ kiện khiến ta không thể
chấp nhận được giả thuyết về một tâm thức đoạn diệt, nghĩa là chỉ giới
hạn hoàn toàn trong kiếp sống này. Gần đây nhất là hiện tượng tái sinh
có chủ định của các vị Lạt-ma Tây Tạng. Không chỉ được nhiều người trực
tiếp chứng kiến, các hiện tượng này còn được ghi chép cụ thể, kèm theo
nhiều hình ảnh và có cả các đoạn phim cho phép người xem có thể kiểm
chứng được tính xác thực của sự việc. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận
được rất nhiều trường hợp đặc biệt của những trẻ em có khả năng nhớ lại
chính xác một số chi tiết trong đời sống trước đây của chúng. Mặc dù
khoa học hiện nay vẫn chưa giải thích được một cách cụ thể về nguyên
nhân dẫn đến những trường hợp này, nhưng việc bác bỏ những sự kiện hiển
nhiên như thế là điều không thể được.
Nhưng ngay cả trong trường hợp chúng ta không chấp nhận các sự kiện nêu
trên và nhất định tin rằng đời sống con người chỉ giới hạn trong phạm vi
của một kiếp sống, thì việc tìm ra một ý nghĩa cho sự hiện hữu của mỗi
chúng ta trong cuộc đời lại càng trở nên khó khăn hơn. Lẽ nào chúng ta
chỉ sinh ra và chết đi như một sự ngẫu nhiên? Và nếu như thế thì sự nỗ
lực hoàn thiện bản thân hay xây dựng cộng đồng nào có ích lợi gì, vì tất
cả rồi sẽ không còn ý nghĩa gì cả khi ta đã đi qua hết những năm tháng
ngắn ngủi của cuộc đời này. Chỉ cần nghĩ đến điều đó thôi, có lẽ chúng
ta đã có thể hoàn toàn mất đi tất cả những động cơ cần thiết cho đời
sống. Và như vậy, trong một chừng mực nào đó thì đây là một cách suy
nghĩ hết sức tai hại.
Trở lại với vấn đề ý nghĩa cuộc sống, hầu hết chúng ta hẳn không ai có
thể hài lòng với cái vòng luẩn quẩn “ăn để sống và sống để ăn”. Khả năng
nhận thức về cuộc sống và chính bản thân mình giúp ta thấy được nhiều ý
nghĩa và mục tiêu cao cả hơn là việc chỉ đơn thuần kiếm sống qua ngày.
Vì thế, việc đi tìm một lý tưởng cho đời sống hầu như có thể xem là bản
năng tinh thần của hết thảy mọi người. Chúng ta khó lòng hình dung được
một con người với khả năng tư duy nghiêm túc lại có thể chấp nhận một
cuộc sống không mục tiêu, không lý tưởng.
Thế nhưng, mọi lý tưởng hay quan điểm sống dường như đều phải xuất phát
từ nhận thức cơ bản nhất về chính bản thân ta, dựa trên mối quan hệ phân
biệt giữa bản thân và thế giới chung quanh. Chính vì vậy mà nhân loại
đã nảy sinh ít nhất là hai quan điểm khác biệt nhau như đã đề cập đến
trong chương trước: duy tâm và duy vật.
Những người theo quan điểm duy vật không thể bác bỏ hoàn toàn quan điểm
duy tâm, vì có những sự thật hiển nhiên đã từng xảy ra nhưng họ không
thể giải thích được. Nhưng ngược lại thì những người duy tâm cũng không
thể thuyết phục được những người duy vật, vì những gì họ tin nhận đã
không được chứng minh cụ thể bằng cái gọi là “những quy luật khách
quan”. Và do đó, tình trạng “đường ai nấy đi” trong cuộc tranh cãi bất
phân thắng bại này có lẽ sẽ vẫn còn kéo dài dai dẳng không có hồi kết
thúc.
Nhưng từ một góc nhìn khách quan và toàn diện hơn thì các quan điểm duy
tâm hay duy vật thật ra đều không giúp chúng ta giải quyết được vấn đề
quan trọng nhất của đời người, không giúp chúng ta nhận chân được ý
nghĩa thực sự của cuộc đời. Hơn thế nữa, có vẻ như việc chạy theo các ý
tưởng về duy tâm hay duy vật còn khiến cho rất nhiều người trong chúng
ta bị lệch hướng.
Đức Phật đã gián tiếp chỉ cho ta thấy sự lệch hướng này khi ngài hoàn
toàn không đề cập đến duy tâm hay duy vật mà chỉ nhấn mạnh vào sự phân
tích và nhận hiểu về chính tâm thức con người. Như đã nói, cả hai quan
điểm duy tâm và duy vật đều dựa trên ý niệm căn bản đầu tiên là phân
biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Xuất phát từ sự phân
biệt này, mọi hành vi ứng xử của ta đều hình thành xoay quanh một “bản
ngã” được xem là trung tâm điểm và quan trọng nhất. Nói cách khác, dù là
duy tâm hay duy vật thì “cái ta” vẫn là quan trọng hơn “người khác”,
vẫn cần phải được quan tâm trước tiên. Và như vậy, sự khác biệt về quan
điểm chỉ có thể dẫn đến những cung cách hành xử có phần nào đó khác biệt
nhau, nhưng về nền tảng cơ bản thì lại không có gì khác biệt.
Và cái nền tảng cơ bản được xây dựng trên quan điểm về một “bản ngã có
thật” đó chính là đầu mối của mọi sự khổ đau và bất ổn mà chúng ta luôn
tự chuốc lấy về mình. Mọi sự công kích hay gây hại nhắm đến cái “bản
ngã” đó đương nhiên được xem là đang nhằm vào ta, đang tấn công ta, và
vì thế ta cần có những phản ứng thích hợp để tự bảo vệ.
Nhưng liệu cái “bản ngã” mà ta mặc nhiên thừa nhận đó có thực sự chính
là ta? Đức Phật đã quán chiếu rõ về điều này và bằng kinh nghiệm thực
chứng của bản thân, ngài dạy rằng cái “bản ngã” đó là hoàn toàn không
thật có. Hơn thế nữa, sự nhầm lẫn cho rằng “bản ngã” đó thật có lại
chính là nguyên nhân dẫn đến tất cả những ưu phiền khổ não trong đời
sống. Trong kinh Pháp cú, đức Phật dạy rõ ý nghĩa này:
Con tôi, tài sản tôi,
Người ngu sinh ưu não.
Tự ta, ta không có,
Con đâu, tài sản đâu?
(Kinh Pháp cú, kệ số 62, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu)
Khi ngay từ nền tảng cái “ta” đã là không có, thì làm gì có những hệ quả
tiếp theo như “vợ con của ta”, “tài sản của ta”...? Và khi tất cả những
thứ “của ta” đó vốn đã là không có, thì dựa vào đâu ta có thể khởi tâm
tham đắm, vướng mắc? Như thế, mọi ưu sầu khổ não sẽ không còn lý do để
sinh khởi, mở ra một cuộc sống ung dung tự tại mà không cần đến bất kỳ
một phép mầu hay sự cứu rỗi nào.
Tiếc thay, một chân lý sáng tỏ như thế nhưng lại có rất ít người trong
chúng ta có thể thực sự nghiêm túc nhận hiểu và làm theo. Vì sao vậy?
Đó là vì sự nhận hiểu về một “bản ngã thật có” đã ăn sâu trong tâm thức
chúng ta từ nhiều đời, nhiều kiếp, đến nỗi ta hầu như đã mặc nhiên xem
đó như một phần nhận thức không thể thay đổi! Hơn thế nữa, suy luận
thông thường của chúng ta dường như rất ít khi chạm đến những điểm vốn
là hoàn toàn không hợp lý trong sự hình thành khái niệm về bản ngã.
Không có nhận xét nào:
Write nhận xét