001-234-567-8910

5th Avenue Madson, NY758, USA

Get Update on our recent Gadgets & Tabs

Recent Comments

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Nghĩ về sống

Trong cuộc sống chúng ta phải trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, cuộc đời xô đẩy con người trôi dạt theo những lo toan phiền muộn. Ta cứ tất bật bỏ lại sau lưng tất cả, bị dòng đời xoay chuyển hết những cố gắng này đến những thay đổi khác. Cứ mê mải chạy theo để rồi khi nhìn lại ta được gì? Có bao giờ ta thấy được giá trị của một cuộc sống bình thường, một việc làm đơn giản. Tuy không lớn nhưng mang lại nhiều niềm hạnh phúc.
Sống như thế nào thì cũng phải sống hết trọn kiếp người. Sống yêu thương hòa hợp, sống chân thành vị tha hay sống ích kỷ, vụ lợi, tranh đoạt thì cũng có mấy ai hưởng được trọn vẹn hạnh phúc một khi nhắm mắt xuôi tay. Chúng ta không bao giờ biết hài lòng với cuộc sống nhưng hãy biết cân bằng đừng bao giờ để bị bế tắc.
Hãy tìm cho mình một lối thoát dù con đường đó có chông gai, hãy vững tâm và tự tin còn có biết bao điều tốt đẹp đang chờ đón ta phía trước. Không ai có thể chọn cho mình một nơi sinh ra nhưng chúng ta có quyền chọn cho mình một mục đích sống. Vậy tại sao ta không chọn một cuộc sống mang nhiều ý nghĩa, sống để không hổ thẹn với lương tâm, để có thể tự hào nhìn cuộc đời bằng ánh mắt hy vọng. Và để thấy được sự hoàn hảo bên trong một con người hướng đến hoàn thiện.
Hãy sống làm sao để trước khi ta chết đi ta không phải hối hận vì những gì ta đã làm. Sống ngay thẳng ngẩng cao đầu không hổ thẹn hay tiếc nuối. Đừng để khi quay đầu nhìn lại ta phải ngậm ngùi rằng: giá như ta đừng làm như thế... Biết rằng để sống được như thế thì không hề đơn giản nhưng ta hãy cố gắng, vì lời nói ra thì rất dễ nhưng khi thực hiện thì rất khó.
Cuộc đời vô thường, một kiếp sống nghe thì có vẻ như dài vô tận nhưng thời gian trôi nhanh và khoảng cách giữa sự sống chết rất mong manh. Hãy sống làm sao để có khi ta vấp ngã, bên cạnh ta có ngay một bàn tay nâng đỡ. Để cảm nhận được vẻ đẹp cuộc đời qua những lời nói, hành động của mọi người. Những lời nói dịu dàng, ánh mắt ấm áp, cử chỉ cảm thông không đủ để xóa hết nhưng có thể xoa dịu những nỗi đau đang âm ỉ.
Có thể ta không hóa giải được nhưng ta đã chia sẻ phần nào những vướng mắc. Ta không cho phép mình chấp nhận hay buông xuôi theo những khó khăn của cuộc đời mang đến. Phải biết nhận thức rằng mình là ai, đang làm gì, đang hướng đến cái gì và quan trọng là phải có một điểm dừng. Dừng lại đúng lúc sẽ giữ lại được rất nhiều thứ.
- Dừng lại những yếu đuối trong lòng để giữ mãi một tình bạn thiêng liêng!
- Dừng lại một lời nói không hay để giữ lại giá trị cao đẹp của chính mình!
- Dừng lại một ý nghĩ vừa khởi để không tạo thêm nghiệp chướng!
- Dừng lại những ham muốn để có được đời sống thanh thản!
Và hãy sống như những câu thơ của thầy Thích Huệ Hải đã viết:
Sống không giận không hờn không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống an vui danh lợi mãi xem thường
Sống bất biến giữa dòng đời vạn biến.
Sống với một tâm hồn trong sáng, luôn hướng tới những mục đích tốt đẹp. Sống vì mọi người xung quanh lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui của chính mình. Thì cuộc đời này sẽ không còn mang đến những đau khổ hay bi lụy, thay vào đó là những hạnh phúc vui tươi là yêu thương chia sẻ. Và cuộc đời này sẽ mãi mãi là một màu xanh hy vọng.

Đời bó buộc ...

Dòng đời cuộn trôi tưởng chừng không lối thoát, bó buộc ta mãi trong một kiếp làm con người. Khi ta vừa mơn man hình thành như những hạt sương, đã được bào thai mẹ che chở, nuôi nấng ta thành nhân. Mẹ đã kiêng cữ trăm điều, đi nhẹ nói khẻ sợ ảnh hưởng đến con, đêm nằm chẳng dám trở lưng vì sợ sức nặng của cơ thể đè ép lên đứa con nằm trong bụng. Từ hạt trứng qua 9 tháng mười ngày con lại bó mình chui ra với đời, ôi sao bó buộc ta như vậy? Ôi những cái bó buộc từ trong trứng nước, đến khi vỡ òa trong tiếng khóc oe oe. Ta lại bị bó buộc bởi bàn tay mẹ, mỗi lần khóc thét đòi bú sữa mẹ, mẹ lại vỗ về cho ta dòng sữa ngọt. Có những lúc ta không thích sự bó buộc, lại cắn một cái thật đau. Mẹ nhăn mặt rồi vỗ tay nhè nhẹ vào mông của con để cho con đi vào giấc ngủ.
Ra đời ta lại phải chịu sự bó buộc của gia đình, mẹ ép ta ăn cho xong bữa. Ta không ăn mẹ dỗ trăm đường. Mớm cho con ăn như con chim mẹ mớm mồi cho chim con, từng thìa từng thìa nhỏ đến lúc ta no mới thôi... Đêm nằm con đái trên giường, mẹ lại sang nằm bên ướt để con thơ nằm bên khô, cho con được say giấc ngủ. "Ầu ơ con ngủ cho ngoan, mai này khôn lớn tung bay với đời". Cuộc đời lại bó buộc ta qua những câu hò lời ru của mẹ, của bà. Thả tâm hồn ta bay mãi nơi xa, có khi theo cánh cò bay lả bay la, bay từ ruộng lúa bay xa cánh đồng. Có khi ta bay mãi trên cánh diều lên tới tận mây xanh, hay thả mình trên dòng sông êm đềm.
Rồi ta lại biết lật biết bò, rồi chập chững lần từng bước đi. Ba mẹ lại thả cho ta đi từng bước từng bước, có lúc ta té nhào khóc ré lên, ba mẹ vẫn bó buộc ta phải tập đi từng bước trên đôi chân của mình, chứ chẳng thèm dìu dắt hay cho ta bám víu để đi. Đến hai ba tuổi ta lại bị bó buộc qua những lời tập nói của ba của mẹ, thôi thúc ta sớm nói lên thành tiếng: ba ba, mẹ mẹ... Những tiếng đầu đời sao mà khó quá, ấm ứ, u a mãi mới bật ra tiếng yêu thương. Gia đình lại vui mỗi khi ta biết nói thêm một tiếng.
Đời bó buộc
Ngày tháng trôi qua, ta lớn lên và bắt đầu cắp sách đến trường. Có những lần mãi chơi không chịu học, ba lại cho ta những trận đòn roi, ba cứ bó buộc ta phải luôn gắng học, không có chữ thì sao thoát khỏi cơ cực hả con? Cha mẹ khổ cực bao nhiêu đi nửa, cũng mong sao con có chữ mà sống với đời ... Những lần đó tôi nhớ mãi vì đau, đánh ta thâm tím cái mông, những vết roi hằn lên da thịt, mẹ lại vỗ về an ủi với ta: "Nghe lời ba gắng học đi con, không ba đánh đòn đau lắm." Lúc đó sao ta ghét cái học chỉ thích theo đám bạn chăn trâu, chúng tung tăng trên những ngọn đồi dòng suối. Chẳng thèm gì đến sách vở học hành. (Giờ này sao tôi lại thèm ba đánh những lúc tôi làm sai điều gì đó. Thèm lắm những trận đòn cho ta nên người)
Lớn lên một tý ta lại bị bó buộc trong cái đạo làm con, làm cháu... Gặp người lớn phải chào ông chào bà, chào chú chào cô... Gặp người lớn tuổi phải chào anh chào chị... Sống phải biết kính trên nhường dưới, biết cảm ơn mỗi lần ta được giúp, biết xin lỗi mỗi khi ta phạm sai lầm... Ta bị bó buộc mãi trong cái nét văn hóa gia đình, họ hàng, quê hương.
Ôi cái bó buộc đời sao dài mãi thế, bước ra đời xa vòng bó buộc của cha mẹ, xóm giềng... Ta cứ nghĩ là đã thoát khỏi vòng đời bó buộc, được tự do tung bay giữa đời thênh thang. Nhưng nào đâu có phải vậy? Ta lại bị bó buộc trong cái cơm áo gạo tiền. Sáng sớm tinh mơ đã vội thức giấc, lao ra đời kiếm cái ăn cái mặc đến tối mờ mịt mới trở về. Làm sao thoát được cái bó buộc này đây, hay là cam chịu và sống chung với nó.
Rồi ta lại bó buộc với gia đình nhỏ, có vợ có con. Ta lại bó buộc con như ngày xưa ta bị gia đình bó buộc, lại tập cho con những bước đi đầu đời. Lại tập cho con nói thành tiếng... Đêm khuya con khóc vì quần tè ướt đẫm, ta lại lò mò thức dậy dỗ con. Những lần con lên cơn sốt, vợ lại lo lắng điện thoại hỏi ông bà. Còn ta lại vỗ về con.
Chắc cái vòng tròn bó buộc này sẽ không ngừng lại, sẽ xoay vòng đến hết kiếp làm người thôi.
Giải thoát - tàn tro
Thôi ta bỏ mặc cái "bó buộc kiếp người" đi, hãy cho nó làm ta khôn lớn, cho ta thành con người. Giải thoát bó buộc đi rồi chắc gì đã là điều hay? Chắc lúc đó ta sẽ bay mãi như con diều mất dây. Cứ bay theo chiều cơn gió thổi, chắc gì ta biết rồi sẻ hạ ở nơi đâu?
Biết làm người là khó, nhưng cái bó buộc đôi khi lại hay, để rồi mai này nhắm mắt xuôi tay, ta lại không còn khóc vì tiếc nuối rằng ta đã không chịu bó buộc.
"Khi ta sinh ra, mọi người cười còn ta khóc.
Hãy sống sao cho khi ta chết đi rồi, mọi người khóc còn ta thì cười!"
P/S: Có những con người khi được cha mẹ cho đi ăn đi học, cưới vợ dựng chồng, họ lại quay lại trách khứ cách giáo dục của cha mẹ, rằng dạy con bằng đòn roi là sai khoa học, là kìm hãm trí phát triển của con thơ, là những biện pháp lạc hậu ...
Cha ông ta xưa hay có câu: "Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi". Những lần cha mẹ đánh con cha mẹ nào có vui gì? Cũng thương con lắm chứ, mỗi lần roi đánh vào đít là lòng cha mẹ thắt lại. Chỉ tại vì con mãi chơi nên phải đòn roi cho con nhớ. Ngày trước có những người con tuổi đã ngoài 50 hay 60 tuổi, đã có con cháu nội cháu ngoại, vậy mà vẫn bị ba đòn roi mỗi lần sai phạm.
Có thể ở phương Tây đánh con đó là phạm luật, nhưng ở Việt Nam đó là những cách dạy cho con nên người. Sai thì bị phạt, giỏi thì được khen.
Đời người có những tội lớn trong đó có tội bất hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Có thể sẽ không có chuyện ông bà bắt hay trừng phạt con cháu, nhưng cái tòa án lương tâm của mỗi con người sẻ tự phán xét họ, đưa họ đến với những hình phạt cao hơn tù đày ngục tối.
Xưa các ông bà hay thêu dệt lên những âm ty địa ngục, ai làm ác thì sẻ bị trừng phạt khi chết: cho vô vạc dầu, cho xuống nơi tối đen, hay cơm đưa tới miệng sẻ hóa thành than tro...Đó là người xưa họ muốn răn đe con người không nên sống độc ác, mà hãy sống với nhau bằng chữ thiện, sống với cái tâm tốt. Ai xấu tốt gì thì dần dần cũng lộ ra, đó âu cũng là cái bản chất rồi. Anh có đi nói xấu họ, bêu rếu họ, tô đen họ để mình được nổi lên. Đến lúc sự thật hé ra thì anh cũng chẳng ra gì? Không cần hô hào ta là người theo này theo kia. Đến chùa thắp hương khấn Phật. Trong khi tâm mình là tâm xà thì cũng bằng không?
Cái câu: "Khi ta sinh ra, mọi người cười ta khóc, hãy sống sao cho khi ta chết đi rồi, mọi người khóc ta cười" làm được vậy không có dễ dàng chút nào. Vì con người còn nhiều cái tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố mà con người cứ mãi rơi trong cái vòng luẩn quẩn bi thương không lối thoát.

Vấp ngã

Có những giọt nước mắt
Chưa bao giờ thành lệ…
Giúp cho ta can đảm đứng lên đi !
Để tâm hồn rũ bỏ bớt sân si,
Biết đồng cảm,
Biết thương ai từng vấp ngã…
Ta vấp ngã …
Hiểu nỗi đau người ngã
Cảm thông nhiều sẽ không thấy vô tâm
Có những niềm đau luôn âm ỉ trong lòng….
Cho ta hiểu: vấp ngã đó
Không chỉ có
Trong nỗi đau người khác!!!  
(Thơ Nam Mai)
Đọc bài thơ của Nam Mai giúp tôi yêu thương hơn những giọt nước mắt chưa bao giờ thành lệ mà cuộc sống đã bạn tặng. Vấp ngã là cái mà trong mỗi chúng ta ai ít nhiều cũng đã trải qua. Có điều là mình đã học được gì sau những vấp ngã, thăng trầm và đổi thay của kiếp người hay không. Sống trên đời ai mà chẳng có nỗi buồn, niềm riêng hay giọt nước mắt chảy ngược…trong đêm lạnh mù sương.
Có lúc khổ đau, tuyệt vọng và cô đơn vây khốn đời mình. Chúng ta có thiên hướng tìm về một nơi nào đó thật bình yên để trú ngụ, để tránh đi những ánh mắt soi mói, không chút cảm thông. Trong bóng tối có khi mình thấy an toàn hơn tất cả. Nhìn cái cảnh đó tôi biết bạn đang rất buồn và tôi cũng vậy. Phải chăng khi công nghệ càng phát triển để kết nối thông tin thì trái tim chúng ta lại lấp lối đi về? Giọt nước mắt rơi trong bóng đêm đẹp như một quả pha lê vỡ, nếu ta biết cảm thông và đón nhận nó bằng cả tấm lòng vị tha, đồng cảm.
Mỗi ngày chúng ta nên dành cho mình một ít thời gian để ngồi thiền, tụng kinh, nghe tiếng lòng, tiếng người, tiếng côn trùng nỉ non trong đêm ngoài nghe nhạc. Sống ở đời vấp ngã chỗ nào thì đứng dậy chỗ ấy, vì không ai có thể bước thay cho mình được. Có chăng là một lời động viên, sự cảm thông để cùng song hành trên đường đời, đường đạo mà thôi. Gió vẫn sống đời gió, mưa vẫn sống đời mưa, em vẫn sống đời em còn tôi cũng một lối về…
Sau những lần vấp ngã ta mới thấy cuộc đời và con người sống với nhau như thế nào. Có lẽ mình sẽ lớn lên, khôn ngoan hơn, biết suy nghĩ sâu sắc hơn. Nên có người cho đó là sự trưởng thành, nhưng chỉ là một mặt của bàn tay. Vì lúc đó trái tim của chúng ta đã có quá nhiều vết thương, nhiều mưu mô; sự hồn nhiên, vô tư cũng đã trở nên xa xỉ. Nụ cười cũng không còn trọn vẹn trong nắng mai.
Trong bài không tên số 4 (lời 2) Vũ Thành An đã viết một câu rất hay: “Sống cho lâu mới biết tình người, biết yêu thương biết khóc cười”. Đây rõ ràng là bài học của đời người, mà phải có cái “Tâm” chúng ta mới học và hành nó một cách trọn vẹn và đẹp nhất.
Vấp ngã là một thực tại không thể tách rời khỏi cuộc sống, nhờ có vấp ngã, có khổ đau mới nuôi lớn tình thương sự hiểu biết trong mỗi chúng ta. Khi chúng ta đã có cái nhìn như vậy về cuộc sống thì vấp ngã chẳng phải là người bạn tri âm của đời mình hay sao? Luôn mong sự bình yên sẽ có mặt trên con đường mà chúng ta đã, đang và sẽ đi qua. Với đôi bàn tay dù không còn vẹn nguyên nhưng luôn biết nắm chặt vào nhau mỗi ngày!
Xin cúi xuống làm người hèn mọn
Để đôi tay làm đẹp cuộc đời!

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2016

Hai cha con cùng mắc bệnh hiểm nghèo, nhưng người cha lại nói: ‘Cứu tôi trước!’

cha conCâu chuyện dưới đây là do ông nội tôi kể lại. Đó là chuyện về nhà hàng xóm, nhưng gia đình ấy giờ đã chuyển đi nơi khác.
Khoảng 10 năm về trước, trong thôn chúng tôi có một gia đình vốn không mấy khá giả, hai vợ chồng thật thà cùng hai đứa con thơ cơm bữa qua ngày có nhau.
Một ngày nọ, người cha đột nhiên run rẩy, chân tay co quắp, toàn thân rã rời. Người mẹ vội vã đưa cha đến bệnh viện, bác sĩ nói nhất định phải làm phẫu thuật.
Gia cảnh thì nghèo, người mẹ lại phải lo lắng chạy vạy tiền nong. Đã không đủ tiền để cứu cha, vậy mà đúng lúc này cậu con trai cả lại xuất hiện các triệu chứng giống hệt cha mình. Bác sĩ cho biết đây là bệnh di truyền, nên cũng phải phẫu thuật thì mới có hy vọng. Người mẹ vừa đau khổ vừa lo lắng, tiền mượn được còn chưa đủ chi trả cho một người, giờ biết làm sao đây? Bà không muốn mất chồng, cũng không thể để mất con trai, giờ biết cứu ai bỏ ai?
Bà buồn bã nói với hai cha con: “Thực sự nhà không còn tiền nữa rồi, cố gắng thì cũng chỉ có thể cứu được một người, hai cha con nói xem nên cứu ai trước?”
Người cha vội nói: “Cứu tôi trước! Tôi là chồng bà, tôi mới là người thân thiết nhất của bà!” Cậu bé nghe những lời của cha mình, buồn bã quay mặt đi rồi lặng lẽ rơi nước mắt.
Người mẹ im lặng. Cuối cùng, bà nói: “Ai có thể chất khỏe hơn thì cứu người đó, vì thể chất khỏe sẽ có hy vọng lớn hơn. Thôi, cứ quyết định như vậy.” Cuối cùng hai cha con đều đồng ý.
Trước đó, cậu bé đã nghĩ sẽ chủ động từ bỏ, để mẹ cứu lấy cha. Nhưng bây giờ, cậu đã thay đổi quyết định – sẽ không bỏ cuộc! Cậu muốn tiếp tục sống, vì cha cậu đã quá ích kỷ! Cậu bé bắt đầu chăm chỉ uống thuốc, thậm chí thuốc có đắng thế nào cậu cũng cố nuốt, không hề nhăn mặt nhíu mày. Cậu muốn cơ thể của mình đủ khỏe mạnh, cậu không thể thua cha mình được.
Một vài ngày sau đó, tình trạng tinh thần và thể chất của người cha càng tồi tệ hơn, còn cậu con trai thì đã khỏe hơn cha nhiều rồi. Lúc này người mẹ và các bác sĩ quyết định cứu chữa cho cậu con trai.
Cuộc phẫu thuật rất thành công. Cơ thể của cậu bé khôi phục từng ngày, còn cơ thể của người cha lại gầy đi từng ngày. Ngày cậu bé xuất viện cũng là ngày người cha bị trả về. Cậu tự mình đi, còn cha cậu thì phải nhờ người chở về.
Sau khi về nhà, hàng ngày cậu bé đều hoạt bát tươi cười, người cha thì mất vào một buổi sáng sớm không lâu sau đó. Khi đó thân thể ông chỉ còn lại da bọc xương…
Chứng kiến cha qua đời, cậu con trai không hề cảm thấy buồn thương, luyến tiếc. Nhưng mẹ cậu thì quá đau lòng. Bà nói với cậu: “Con trai à cha đã mất rồi, con không cảm thấy buồn sao? Con hãy lại dập đầu lạy ông ấy vài lạy đi”.
Cậu bé lắc đầu, nói: “Không!!! Con không lạy ông ấy!”
Người mẹ nói: “Con à, mẹ muốn nói với con rằng, sự thực không phải như vậy đâu. Ngay từ đầu, cha con đã quyết định bỏ cuộc, để mẹ cứu lấy con. Nhưng ông ấy sợ rằng nếu cứu con mà lại không cứu ông ấy thì con sẽ áy náy và cảm thấy có lỗi cả đời, nên mới nói ra những lời ích kỷ như vậy. Tuy những lời nói đó làm con tổn thương, nhưng đó lại chính là động lực để con cố gắng, để con dám giành lấy cơ hội sống mà không cảm thấy áy náy. Sự thực là ông ấy đã nhường hết thuốc của mình cho con. Nếu không phải vì để cứu con, thì hôm nay ông ấy đã không ra đi như thế này.”
Bà mẹ chưa dứt lời, cậu bé đã nước mắt tuôn trào, cậu đến trước linh cữu của cha mình quỳ sụp xuống. Cậu cứ quỳ ở đó ròng rã cả ngày trời, nước mắt không ngừng rơi vì ân hận. Nhưng trong quan tài, có lẽ người cha vĩ đại của cậu đang mỉm cười…

Gặm nhấm nỗi đau

“Những kẻ ngu ngốc đi qua đời mình như thể là kẻ thù của chính họ, thực hiện những hành vi tội lỗi là những thứ đưa đến những hậu quả cay đắng” – (Đức Phật trong Dhammpada 66). Quả đúng là như thế khi ta nhìn vào cuộc sống này, một cuộc sống mà Đức Phật đã phải thốt lên là “bể khổ”. Cái “bể khổ” này, rất hiếm người chịu nhìn đó là do chính sự ngu dốt và ngây dại của mình tạo nên mà Đức Phật hay gọi là sự vô minh, nhưng ta thường hay đổ lỗi cho những thứ bên ngoài bản thân để rồi cứ liên tục chịu lấy nỗi đau mà không sao hiểu được lý do và căn nguyên. Ta hãy quan sát và sẽ thấy một thực tại đáng buồn, nếu không muốn nói là bi thảm của phận người, đó là ngày càng có quá nhiều người để cho sự đau khổ có căn nguyên từ sự ngu dốt của mình thống trị đến mức hào mòn và diệt vong sự sống nơi họ. Họ mở miệng ra là than và trách hoàn cảnh và những ai mà họ cho là căn nguyên gây nên câu chuyện bi thương đời họ, nhưng chưa một lần biết nhận lấy trách nhiệm về phía mình. Và họ được Đức Phật liệt vào hạng ngu ngốc.
Swami Nirmalananda khi diễn giải lời nói trên của Đức Phật, ông đã nói thế này: “Tôi thường hay đề cập đến hình ảnh con lạc đà hay gặm lấy sừng của mình để rồi phải rách miệng và chảy máu, nhưng nó vẫn cứ thích làm như thế liên tục. Con người cũng y chang thế. Ta thích lặp đi lặp lại điều mà khiến ta phải chịu đựng quá nhiều, và thường thì ta hay quyết là sẽ chẳng để nó lặp lại nữa, nhưng thật ra vẫn chỉ là sự tái lặp nỗi đau trong sự ngớ ngẩn của bản thân. Nhiều người đã tự hoại đời mình mà không hề có một ý niệm nào là họ đang tự hại đời mình. Họ quá ngu dại như chính vấn đề họ đang phải đối diện, và lại tiếp tục chọn lấy nỗi đau cũ.” Còn cá nhân tôi hay dùng cảm nghiệm riêng mình để nói: “Đa phần chúng ta hạ quyết tâm làm một việc gì đó chỉ để bị quyết tâm hạ gục trong sự ngu dại của bản thân”.
Cứ khiêm tốn nhìn lại cuộc sống của mình, ta sẽ kinh nghiệm rõ nét điều mà Swami Nirmalananda đã nói ở trên. Ta thường chính là thủ phạm gây nên mọi mất mát, đau đớn, căng thẳng, bất hạnh, đổ vỡ…cho chính cuộc đời mình, song ta lại chả chịu nhận ra mà thay vào đó là cứ tái đi tái lại những điều mình thường làm tổn thương chính mình trong sự cay nghiệt oán trách và đổ lỗi cho người khác hay cho hoàn cảnh. Hễ có dịp và hoàn cảnh thuận lợi là ta ngồi ôn lại chuyện xưa chỉ để đào bới lên cái mồ vốn dành để chôn những xác chết, rồi ta hít lấy hít để mùi hôi thối bốc ra từ nấm mồ ấy và khoái chí trong sự hối tiếc, hối hận, căm phẫn, oán trách, và hận thù của mình về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Ta tự tội nghiệp mình bằng những kỉ niệm đau thương ấy, thứ kỉ niệm do mình tạo ra trong sự vô trách nhiệm và vô minh của chính mình, nhưng lại đổ sang cho người khác.
Nói theo ngôn từ mặc khải của Kinh Thánh thì ta là kẻ thích tìm người sống ở nơi dành cho những kẻ chết (x. Lc 24,5). ĐGH Francis đã nói: “Những vấn đề, những bận tâm túi bụi hàng ngày có xu hướng làm chúng ta thu mình lại, trong sự cay đắng, sự buồn bã… và ngay cả trong cái chết.” Căn nguyên ở chỗ là ta tự thu mình lại và ta tự đi tìm lấy cái chết mà tưởng là sự sống. Ta đi tìm một thực tại ảo mà tưởng đó là thật. Ta đi tìm một sự giả dối và gian trá mà tưởng đó là chân lý và sự thật. Ta đi tìm sự bất công mà tưởng đó là công lý. Ta đi tìm chiến tranh và hận thù mà tưởng đó là bình an và tình yêu. Tất cả đều xuất phát từ sự ngu dại của bản thân ta, và ta phải chịu trách nhiệm về sự ngu dại này, không ai khác.
Vậy phải làm sao đây? Rất đơn giản là ta hãy chỉ cần bình lặng lòng mình lại, nhận thức vấn đề của bản thân, và từ đó chấp nhận mình là căn nguyên của mọi điều bất hạnh đang diễn ra với mình từ trong quá khứ đến hiện tại. Và ngay tại thời điểm ta nhìn thấy sự thật ấy nơi bản thân mình, thì “sự thật ấy sẽ giải phóng ta” như lời xác quyết từ Thầy Giêsu: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” – (Ga 8,32). Còn chừng nào ta chưa chịu đón nhận sự thật ấy thì ta hãy biết rằng ta đang sống trong sự lừa phỉnh của chính mình. Ta tự lừa và ru ngủ mình trong những nỗi đau cuộc đời. Ta thích sống trong một thế giới lừa đảo và ảo tưởng của những tưởng tượng và tư duy ngu ngốc của mình. Ta thích ở lại trong nghĩa trang đìu hiu, ta thích tìm gặp mình nơi những nấm mồ chôn kẻ chết, ta thích giao du với những người giống như ta về mọi mặt, ta thích đi tìm sự giải thoát trong những chất gây kích thích, trong những câu chuyện phiếm, chuyện độc hại, và nơi những đám đông ồn ào đầy tiếng kêu than của những kẻ ngốc giống như ta. Mọi điều ta thích trong sự ngu dại của bản thân mình sẽ chẳng dẫn ta đi đến đâu ngoài những khổ đau, mất mát, tổn thương, và cái chết.
Để được sống vui, sống khoẻ, và sống tự do, ta hãy biết nhìn vào thực tại của bản thân bằng một con tim khiêm tốn và chân thành, và bằng một sự khôn ngoan đến từ Trời Cao. Ta hãy chấp nhận một sự thật về bản thân là ta chính là căn nguyên của mọi câu chuyện buồn đời mình. Ta chính là nguyên nhân của mọi sự đổ vỡ và vấn đề của đời mình. Và khi ta đón nhận sự thật ấy, ta sẽ thấy một lối thoát rộng mở ở phía trước, lối ấy sẽ đưa ta đến miền đất của người sống, của niềm vui, bình an, và hạnh phúc thật.

Nguyên do nào có sanh tử

Muốn làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì phải bắt đầu tìm nguyên nhân nào sinh ra sinh già, bệnh, chết. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Chúng sanh thật đáng thương, thường ở trong tối tăm, chịu lấy thân phận nguy khốn, nào sanh, già, bệnh, chết đến dồn dập đủ các thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo khổ ấm thân nên lưu chuyển vô cùng. Ta lúc mới hiểu rõ ngũ ấm và diệt hết sanh, già, bệnh, chết? Thì Ta lại suy nghĩ: Sanh tử đâu đến? Duyên từ đâu mà có sanh?
Do tự đặt ra câu hỏi như vậy Ta liền dùng trí tuệ quan sát nguyên do và thấy rằng, do sanh mà có lão tử, như vậy sanh là duyên của lão tử”.(Trường A  Hàm tập I trang 60)
Lời dạy trên đây của đức Phật là một lý giải một nguyên nhân sinh ra LÃO TỬ làm chúng ta dễ hiểu mà hiểu một cách rất rõ ràng. Do cuộc sống hằng ngày mà mọi người theo tâm ngũ triền cái và thất kiết sử mà con người mới có LÃO TỬ.
Muốn không LÃO TỬ thì chúng ta phải sống không theo ngũ triền cái và thất kiết sử. Muốn sống không theo ngũ triền cái và thất kiết sử thì chúng ta phải dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý, khi tâm mỗi lần có niệm khởi thì mau mau lập tức phải tác ý liền: “TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ”. Cứ siêng năng tu tập khi có niệm khởi liền tác ý thì tâm trở về trạng thái tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN. Tu tập như vậy chừng nào tâm không còn niệm khởi. Tâm không còn niệm khởi là tâm đã diệt sạch ngũ triền cái và thất kiết sử.
Dù chúng ta muốn diệt trừ một ác pháp nào thì chúng ta cũng phải dùng pháp dẫn tâm thì mới diệt trừ được ác pháp đó. Cho nên pháp NHƯ LÝ TÁC Ý rất cần thiết cho người tu tập theo Phật giáo. Ngoài pháp NHƯ LÝ TÁC Ý ra thì Phật giáo không còn có pháp nào tu tập hay hơn.
Pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý được xem là một thanh trường kiếm của người dũng sĩ xông trận chiến thắng quân giặc, nếu không có thanh trường kiếm thì người dũng sĩ  không bao giờ thắng giặc oanh liệt. Cho nên pháp NHƯ LÝ TÁC Ý nó cũng quan trọng như vậy xin quý vị nhớ cho.
NGUYÊN DO NÀO KHÔNG CÓ LÃO TỬ
Như trên đã nói chỉ có pháp NHƯ LÝ TÁC Ý thì ngũ triền cái và thất kiết sử sẽ bị diệt trừ. Ngũ triền cái và thất kiết sử bị diệt trừ thì SANH diệt trừ, SANH diệt trừ thì LÃO TỬ sẽ diệt trừ như đức Phật đã dạy: “Đức Phật lại tự suy nghĩ. Do những cái gì không có mà lão tử không có? Do cái gì đoạn diệt thì lão tử đoạn diệt? Rồi Ngài lại dùng trí tuệ quan sát nguyên nhân: Do sanh không có nên lão tử không có, do sanh diệt nên lão tử diệt”. (Trường A Hàm tập I trang 60)
Đúng vậy, SANH không có thì LÃO TỬ không có, SANH diệt thì LÃO TỬ diệt. Cho nên khi biết tu tập đúng pháp chân chánh thì làm chủ sanh, già, bệnh, chết đâu còn khó khăn nữa.
Vì chúng ta biết nguyên nhân sinh ra LÃO TỬ thì ngay nguyên nhân đó mà diệt trừ. SANH là nguyên nhân sinh ra LÃO TỬ, vì vậy chúng ta hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý diệt trừ từng tâm niệm của SANH thì SANH bị diệt, tức là NGŨ TRIỀN CÁI và THẤT KIẾT SỬ bị diệt.

Cô đơn

Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời. Thực ra, những người đầu hàng cuộc đời không hẳn đã phải là những người lớn. Trong lứa tuổi các em, cũng đã có rất nhiều người đầu hàng cuộc đời rồi. Hãy để cho họ tạm yên, bởi vì họ đang cần được yên. Dù sao họ cũng đáng thương như chúng ta. Em có thể gọi họ là những người chết, nếu em muốn. Hoặc em có thể nói  như Albert Camus rằng họ sống như những người chết, điều đó cũng không sao. Cái gì đã khiến cho chúng ta ngồi lại bên nhau để nói chuyện cùng nhau, nếu không phải là ý thức về thực trạng của chúng ta? Hãy tự hào là những người tỉnh táo. Hãy tự hào là những người không bị chìm đắm trong cảnh túy sinh mộng tử. Hãy có thái độ nổi loạn đối với guồng máy đang muốn lôi kéo tất cả chúng ta vào cảnh túy sinh mộng tử. Điều thiết yếu là ta phải biết nổi loạn bằng cách nào. Bởi vì có những cách nổi loạn chỉ gây thêm chìm đắm. Và có những cách nổi loạn khác có thể đưa tới sự giải phóng con người. Tôi muốn được đàm luận với em về những điều ấy. Và đàm luận một cách thẳng thắn, can đảm.
Có lẽ điều bi thảm nhất đối với những con người trẻ tuổi hôm nay là càng chống đối và ghét bỏ những hình thái sinh hoạt hiện tại bao nhiêu, con người lại càng bị mắc kẹt vào những hình thái ấy bấy nhiêu. Em thử nhìn lại xem. Em chán ghét trường học, nhưng em cũng cứ phải hàng ngày chui đầu vào lớp học để nghe giảng những môn học hình như không dính líu gì đến những băn khoăn thao thức lớn nhất trong tâm hồn em. Em chán ghét thi cử, khinh miệt bằng cấp, vậy mà em vẫn phải chui đầu vào phòng thi, cố cướp cho được một mảnh bằng như bất cứ ai khác. Em rất chán ghét đời sống cạo giấy an phận của công tư chức nhưng mà em vẫn phải lê mòn gót chân đi tìm công việc như bất cứ một người thất nghiệp nào. Em không yêu, không nghĩ đến đời sống lứa đôi nhưng em vẫn lao đầu vào những cuộc phiêu lưu cảm giác để gây thêm chán chường và bực tức cho em và cho kẻ khác. Em phải bắn vào đầu những kẻ em không thù hận. Em bị mắc kẹt vào những gì em khinh ghét và những gì em ghê sợ nhất. Nhận thức ấy làm cho em khinh ghét và ghê sợ chính em. Em thấy em bất lực trước một thực tại càng ngày càng trở nên khắc nghiệt, càng ngày càng thêm sức khống chế, và tiêu diệt em. Ý thức điều ấy em đã nổi loạn. Em đập phá lung tung. Và càng vùng vẫy, em lại càng mắc kẹt. Không những em đã làm như thế mà chúng tôi cũng đã làm như thế. Những người đi trước ta cũng đã làm như thế. Trong cơn hốt hoảng, bối rối, chúng ta có thể tạo nên nhiều lầm lỗi, chúng ta nổi loạn không đúng cách. Chúng ta đã không đập vỡ được mà chỉ mua thêm lấy những thất vọng, những chán chường, những mệt mỏi. Để rồi chúng ta tự làm cho tình trạng đã bi đát lại càng bi đát thêm ra đến cả trăm lần.
Tôi thấy nhất định là chúng ta phải nổi loạn rồi. Bởi vì nếu ngồi yên, thúc thủ, tiêu cực, chúng ta sẽ bị lôi tất cả vào guồng máy, và nhân loại sẽ đi đen chỗ tiêu diệt nhân tính. Con người vì tiện dụng đã đặt ra những khuôn khổ, và những khuôn khổ ấy cũng đã trở lại khống chế con người. Con người bị bắt buộc phải chui vào những khuôn khổ kia để rồi phải từ chối bản ngã chân thực của mình. Con người khoác lên một bộ mặt giả tạo để có thể mua được sự an thân tầm thường. Xã hội bắt em phải điêu đứng thảm hại nếu em không chấp nhận những khuôn khổ của nó. Em phải ăn theo những cách thức nào đó, nói theo những khuôn thước nào đó, cười theo những mẫu mực nào đó. Có những cái em không được ưa thích và có những cái khác em phải tập ưa thích cho bằng được. Có những cái xã hội không cho phép em có, và có những cái xã hội bắt em phải có. Nếu em không tuân theo những mệnh lệnh đó, nếu em không làm được những gì xã hội buộc em phải làm thì em sẽ bị xem như là một người bất thuờng, và tệ hơn nữa, một người bất lực. Vì vậy muốn được an thân, con người phải cúi đầu chịu khuất phục mệnh lệnh của số phận, con người phải chui đầu vào guồng máy.
Bởi vì chúng ta không muốn tiêu diệt con người của chúng ta nên chúng ta nổi loạn. Thân phận của con người sở dĩ đã bi thảm lại càng bi thảm thêm là vì những cuộc nổi loạn của con người đã không đủ sức để phá vỡ được guồng máy mà thương thay chỉ gây thảm thương tích cho con người nổi loạn. Cuộc đời đã trả thù những kẻ nổi loạn chống lại nó và trả thù một cách đích đáng. Con người nổi loạn đã bị điêu đứng thảm hại. Con người nổi loạn đã bị lên án, đã bị gạt ra ngoài lề của xã hội, đã mang đầy thương tích, đã trở thành điên loạn. Đứng trước những đe dọa tiêu diệt nhân tính của guồng máy xã hội, đứng trước những đổ vỡ trong và ngoài, chứng kiến những thảm kịch của cuộc sống, người trẻ tuổi hôm nay vừa bàng hoàng vừa phẫn nộ, vừa khiếp sợ vừa xót xa. Câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời đã đến với các em rất sớm. Tuổi các em đáng lẽ phải còn là tuổi hát ca, nay đã bắt đầu là tuổi của những băn khoăn thắc mắc siêu hình. Có phải cuộc sống kinh nghiệm an phận đã đánh mất hồn nhiên của em đâu. Có phải người lớn đã cướp giật hồn nhiên của em đâu. Chính là cuộc đời, chính là những khuôn khổ, chính là sự tàn phá khốc hại của guồng máy.
Những biến cố xảy ra cho đất nước trong mấy mươi năm vừa qua đã làm cho tình trạng trầm trọng hơn lên. Chiến tranh đã tàn phá. Máu chúng ta đã đổ. Vấn đề quốc gia trở thành một vấn đề quốc tế. Một số trong chúng ta mang nặng mặc cảm nhược tiểu bất lực.
Trong hoang mang khổ đau, chúng ta  nhận thấy gia sản tinh thần của cha ông chúng ta đã mất đi rất nhiều giá trị và hiệu lực trong cuộc sống mới. Những nguyên tắc của đạo làm người, xưa tưởng như là bất di bất dịch, nay đã tự chứng tỏ là những giáo điều không còn phù hợp với tâm trạng và hoàn cảnh của người thời đại. Nền tảng của sinh họat gia đình cũ và của lễ giáo cũ đã bị lung lay. Chúng ta chưa kịp rút được trong truyền thống tinh thần của dân tộc ra những chất liệu cần thiết để tạo dựng cho chúng ta một nhân sinh quan mới thích hợp với tâm trạng và hoàn cảnh mới, thì những khắc khoải những đổ vỡ của văn minh Tây phương đã lại tràn sang như những đợt sóng vỡ bờ tàn hại. Một số lớn các bậc phụ huynh, không hiểu được nguyên do căn bản của cuộc khủng hoảng, đã quy hết tội lỗi về cho thế hệ trẻ. Họ nói đến sự suy đồi của đạo lý. Họ nói đến tuổi trẻ như tuổi của ăn chơi, của tinh thần vô trách nhiệm. Họ chứng kiến sự suy sụp của nền tảng gia đình cũ và cứ cố níu lại một cách tuyệt vọng thứ uy quyền mà ngày xưa đã từng là một giá trị tuyệt đối trong gia đình - một giá trị được đạo lý và luật pháp bảo đảm.
Thứ uy quyền đó đã mất rồi, không phải vì các bậc phụ huynh không biết sử dụng nó, cũng không phải vì các con em cố tình chống lại nó, mà tại vì nền tảng kinh tế của gia đình đã thay đổi một cách đáng kể. Cá nhân bây giờ không còn là cá nhân trong chế độ gia đình cũ. Phong tục, tập quán, luật pháp và kinh tế xưa không cho phép cá nhân tồn tại ngoài gia đình, hạnh phúc của cá nhân và của gia đình liên hệ với nhau một cách mật thiết, và cá nhân chỉ có thể có hạnh phúc trong phạm vi gia đình của mình. Thời đại của Tự Lực Văn Đoàn đã chứng kiến thảm kịch của sự vùng vẫy của cá nhân để thoát ra khỏi những kiềm tỏa của gia đình. Từ ngày kỹ nghệ và thương mại chiếm được địa vị trên trường kinh tế, nhu yếu giải phóng ấy càng ngày càng thêm rõ rệt, thêm cấp bách. Gia đình ngày nay, ai cũng biết, không còn giống như gia đình ngày xưa, vì vậy uy quyền và trách nhiệm phụ huynh phải được quan niệm lại để có thể trở nên phù hợp và hữu hiệu. Cố níu lấy thứ uy quyền cũ, cố sử dụng thứ uy quyền mà thực ra bây giờ mình không có, các bậc phụ huynh chỉ làm cho con em xa lánh mình và do đó cắt đứt những giây liên lạc cảm thông với chúng.
Trong thời đại này của chúng ta, ai cũng có một tâm sự đa đoan, ai cũng là nạn nhân của những biến cố những tệ đoan xã hội. Sự giao tiếp với thế giới con người trở nên phức tạp; cùng đứng trong guồng máy tranh chấp con người dần dần trở nên nguồn khổ đau cho nhau. Con người không xướng họa hòa hợp với nhau nữa mà phải vùng dậy lấn áp nhau, đè bẹp nhau. Hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xô đẩy con người đi vào cái thế địa ngục của nhau. Những nét nhăn trên trán, những bực dọc thường nhật, những cau có gắt gỏng ấy, vô tình chúng ta đem về nhà để làm cho không khí của gia đình căng thẳng. Ai cũng có một thế giới lo âu riêng và không có đủ thì giờ lo nghĩ và săn sóc đến người khác, dù người khác ấy chỉ là người trong gia đình. Mỗi người là một thế giới, một vũ trụ, một hoang đảo. Mỗi người có một vỏ cứng bao bọc chung quanh. Những bực dọc những cau có kia lách vào giữa mọi người và càng lúc càng tách xa người này với người khác. Chúng ta có cảm giác cô đơn thực sự, và tệ hại hơn nữa là cảm giác ấy, trong khi chung đụng với những người thân yêu trong gia đình, lại càng rõ rệt hơn bao giờ hết.
Chúng ta rút vào trong cái vỏ của chúng ta với ước mong được yên thân. Nhưng chúng ta không được yên thân hơn chút nào. Đối diện với niềm cô đơn của chúng ta, đối diện với chính chúng ta, chúng ta không đủ sức để chịu đựng. Con trai thì leo lên xe gắn máy đi tìm một thằng bạn, bất cứ thằng bạn nào, để rồi cùng vào ngồi nơi một quán nước, trao đổi vài câu chuyện, nhìn người đi kẻ lại qua khói thuốc của mình Con gái thì khoác vào một chiếc áo dài, xuống phố theo đám đông, trôi xuôi hai bên bờ đại lộ. Các em trốn không khí gia đình tìm đến nơi đám đông để rồi lại từ đám đông trở về với cái cô đơn của mình. Các em không có bản lĩnh thực sự cho nên các em không dám đối diện với cái cô đơn ấy. Và các em phải thường trực trốn chạy, trốn chạy sự cô đơn, trốn chạy chính bản ngã của các em.
Trong khi đó, oán ghét gia đình, em phải bám lấy gia đình; oán ghét học đường em vẫn phải chui đầu vào lớp học. Em vẫn phải học, phải thi, phải đỗ, phải kiếm việc làm. Không tin ở giá trị những việc em làm, em có mặc cảm rằng em giả dối. Em không thừa nhận những bảng giá trị hiện tại nhưng em vẫn phải phục tùng. Em vẫn phải phục tùng, vì những lý do do thật giản dị: em phải ăn, em phải mặc, em phải ngủ, nói tóm lại em có những nhu cầu ngũ uẩn phải được thỏa mãn. Có phải chính bi kịch của con người là ở chỗ vừa phủ nhận vừa phải phục tùng những ước muốn ác liệt của số phận không ? Mà số phận là gì nếu không phải là những gì do con người tạo ra bây giờ đã trở lại không chế con người?
Tôi cũng như em , tất cả chúng ta đều có một hệ thống thần kinh cần được giữ cho tương đối thăng bằng, tất cả chúng ta đều có những nhu cầu trí tuệ tình cảm sinh lý thông thường, tất cả chúng ta cần phải được nuôi dưỡng trong những môi trường thuận tiện (chứ không phải dễ dãi) để có thể bảo vệ và phát triển những khả năng đặc biệt của chúng ta. Và bởi vì hoàn cảnh bao giờ cũng mang tính cách cộng đồng, chúng ta biết rằng chính con người đã tạo nên hoàn cảnh của mình và chỉ có con người mới đủ sức chuyển tạo được hoàn cảnh. Là nạn nhân trực tiếp của những hoàn cảnh xã hội hiện tại khống chế bởi guồng máy hiện tại, chúng ta mất đi rất nhiều tự do sáng tạo.
Tuy vậy chỉ có chúng ta mới chuyển đổi được hoàn cảnh, mới đập vỡ được guồng máy. Ta không còn có thể hy vọng ở một thế lực nào khác ngoài thế lực của chúng ta. Nhưng trong tình trạng cô đơn, nghi ngờ và thác loạn, ta không thể nào thực sự tạo nên một sự thay đổi. Chúng ta đã nổi loạn, nhưng những cuộc nổi loạn đó vẫn chỉ là những cuộc nổi loạn rất cô đơn. Chúng đưa tới sự trả thù của guồng máy. Chúng ta bị điêu đứng tàn hại vì đã dám chống lại nó. Bị gạt ra khỏi cuộc sống ước lệ, bị khinh bỏ, đè nén, la mắng, tủi nhục, chúng ta càng cảm thấy xa lìa mọi người, càng trở nên cô đơn, càng thêm thù ghét con người. Càng mất bình tĩnh, chúng ta càng đập phá lung tung, và sự mệt mỏi rã rời của thần kinh của thể xác và tâm hồn kêu gọi một sự trốn chạy cuối cùng: tự tử. Khi một người nhận thấy rằng cuộc đời vô lý không đáng sống, thì hắn cũng nhận thấy luôn rằng tự tử không phải là một cái gì đen tối mà có thể là một nẻo thoát quang đãng cũng chưa biết chừng.
Em hãy cho tôi trở lại với hệ thống thần kinh của chúng ta. Thực ra vì cái hệ thống thần kinh bị giao động mãnh liệt đó mà chúng ta đã thấy cuộc đời quá bi thảm. Sự thực, thiếu bình tĩnh, chúng ta đã tạo thêm quá nhiều đen tối cho cuộc đời, nhất là cho cuộc đời của chính chúng ta. Cảm giác cô đơn là do những vụng dại, ngu dốt và kém cỏi của chúng ta tạo ra: đó là một chứng bệnh của con người, hơn là một cái gì nằm trong bản chất của con người. Vì thiếu bản lĩnh, thiếu khôn ngoan, ta đã tạo ra những đường nứt, những chiếc vỏ cứng, những bức tường chia cách cao vút, ngay giữa những người thân yêu và có cảm tưởng rằng ta với những người khác không được cùng làm bằng một chất, do đó, không thể nào có sự cảm thông. Nếu gia đình là một tổ chức giả hiệu, thiếu tình thương, thiếu cảm thông. Nếu gia đình chỉ là một quán trọ, thì đó chính là vì sự hèn kém của chúng ta, vì sự ích kỷ của chúng ta, vì những vô minh của chúng ta. Chính chúng ta gieo mầm tách biệt thì chúng ta không nên phàn nàn về sự cô đơn. Ta phàn nàn rằng không ai hiểu ta thì chính lúc đó, ta không hiểu được ai. Chính những phàn nàn đó biểu lộ rõ rệt sự ích kỷ của chúng ta và cả sự độc tài của chúng ta nữa.
Có những trang thanh niên, chỉ vì một vài thất bại nhỏ khi mới bước chân vào đời, một vài lần thi hỏng, một vài sự phản bội chẳng hạn, cũng đã tự cho rằng mình cô độc nhất đời. Những người trẻ tuổi này bắt đầu nói chuyện chán nản, nói chuyện cô độc, nói chuyện nôn mửa. Một số khác, sẵn có chút ít kiêu ngạo và ngông nghênh của tuổi trẻ, cũng nói chuyện chán nản, cô độc và nôn mửa. Rốt cuộc thái độ tỏ ra bất cần đời đó trở nên một cái mốt mới.
Ai mà không "nổi loạn" thì kẻ đó là người tầm thường, kẻ an phận. Những cuốn tiểu thuyết hiện sinh ngoại quốc bắt đầu bán chạy ở xứ ta không phải vì giá trị của chúng mà vì cái mốt hiện sinh đã được đề cao. Cả những kẻ không đọc trôi được những cuốn tiểu thuyết ấy cũng có chúng trong tủ sách mình, trong tay mình, trên xe buýt cũng như trong lớp học. Rồi truyện ngắn truyện dài nói chuyện chán chường khinh bạc cũng xuất hiện trên thị trường văn chương Việt Nam và kéo vào vũng lầy của sự tự kỷ ám thị một số không ít những con cừu của Panurge. Chúng ta ai cũng biết rằng bắt đầu bằng những câu chuyện chán chường, và một vài cử chỉ tỏ vẽ chán chường, dần dần nếp sống của ta sẽ trở nên chán chường thật sự. Con người yếu đuối và dễ bị nhiễm độc, dễ bị ảnh hưởng: chúng ta cần nhìn nhận sự thực đó.
Cho nên ta hãy van xin các nhà văn nghệ đừng đào sâu thêm, đừng trình bày thêm khía cạnh chán chường cô độc của con người, đừng bi kịch hóa thêm những gì đã vì vụng dại của chúng ta mà trở nên bi kịch. Vết thương rướm máu, xin đừng cào quấu thêm ra. Đừng tự ám thị và đừng ám thị kẻ khác nữa. Vạn sự là do tâm chúng ta. Đừng chết đuối trong biển chán chường cô độc do chúng ta tự tạo. Văn nghệ nên đảm nhận sứ mệnh tri liệu bởi vì ở giữa đời này không có ai lại là người có thể sống một cách vô trách nhiệm, dù là nhân danh tự do. Chúng ta hãy lắng lòng cho phong ba bão táp dịu xuống, cho mây mù tan đi. Chúng ta không thực sự cô đơn. Cuộc đời không thực sự đáng ghê tởm. Cuộc đời cũng như sự sống là một cái gì mầu nhiệm.
Mẫu trời xanh trong mắt em thơ thật là mầu nhiệm. Tư tưởng chúng ta cũng là những gì mầu nhiệm. Chúng ta hãy bình tĩnh lại để thấy rằng ngục tù giam hãm chúng ta trong cô đơn vốn là một ngục tù do tâm chúng ta tự tạo. Hãy ngồi xuống và bắt đầu bằng một cuộc nói chuyện thực sự. Hãy đập vỡ cái vỏ cứng đang giam hãm em. Hãy cố gắng về phần em một tí. Tôi biết khi em đọc qua những giòng này em có thể nói rằng tôi không hiểu em. Và khi nghe em nói như thế, tôi cũng có thể trả lời rằng: Em không hiểu tôi. Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Chi bằng chúng ta hãy chấp nhận sự thực này: nếu tôi không hiểu em, thì ít nhất tôi cũng đang muốn tìm hiểu em và muốn được em hiểu. Nơi em, tôi cũng chỉ mong có chừng ấy. Bởi vì tôi thấy chìa khóa của vấn đề là nơi sự thông cảm. Có sự thông cảm, chúng ta mới đánh tan được ảo giác cô độc. Và chỉ có thông cảm chúng ta mới có phương tiện gom tâm lực của chúng ta thành một sức mới để có thể nổi loạn một cách bình tĩnh, hữu hiệu, chống lại được guồng máy, chuyển đổi được tình trạng. Nếu không, những cuộc nổi loạn đơn độc vụng về và mất bình tĩnh cũng sẽ chỉ đưa đến thêm những đổ vỡ những  đen tối và tình trạng sẽ vì vậy mà càng ngày càng trầm trọng hơn lên.

Vứt bỏ quan điểm

Nếu bạn sống với các quan điểm, bạn không thể thấy được cái thực của bất kì cái gì. Quan điểm của bạn bao giờ cũng tới như rào chắn. Nó cản trở, nó bóp méo, nó không cho phép bạn thấy mọi vật như nó đang đấy. Và thực tế là cái đang đấy. Để biết thực tế bạn không cần có bất kì quan điểm nào. Thực tế, nếu bạn thực sự muốn biết cái thực, bạn phải vứt bỏ các quan điểm.
Cái gì đó vẫn có vẻ tuyệt đối đúng chừng nào nó vẫn còn khớp với bạn - cứ dường như bạn là tiêu chuẩn của cái thực. Khoảnh khắc nó không khớp với bạn thì nó sai. Đây là cách tiếp cận sai, và nếu bạn giữ cách tiếp cận này, bạn sẽ không bao giờ đạt tới cái thực.
Nếu cái gì đó không khớp với bạn, thế thì đừng vội vàng mà quyết định vấn đề - rằng nó phải sai bởi vì nó không khớp với bạn. Nó không cần phải khớp với bạn. Thực tế không có nghĩa vụ gì phải khớp với bạn. Thực tại không có nghĩa vụ gì phải khớp với bạn. Nếu nó không khớp với bạn, thế thì con người của hiểu biết đúng sẽ tự thay đổi mình chứ không phủ nhận thực tại.
Cho nên bất kì khi nào điều đó gây tổn thương, bất kì khi nào thực tại gây tổn thương, và bất kì khi nào bạn cảm thấy rằng bạn không khớp, thì chính bạn mới là người không khớp chứ không phải là thực tại. Và người không có quan điểm nào sẽ không bao giờ thấy rằng có xung đột gì giữa mình và thực tại. Người đó bao giờ cũng sẽ khớp với thực tại và thực tại sẽ khớp với người đó - cũng hệt như găng tay khớp với bàn tay.
Vứt bỏ mọi quan điểm. Người không có quan điểm, người không có ý kiến, người không một ý nghĩ níu bám vào, người chỉ là tấm gương, mới phản chiếu thực tại.

Suy ngẫm sự đời

Trời đất không thiên vị ai, nên đã che chở, nuôi dưỡng muôn loài, vạn vật; nhật nguyệt không của riêng ai, nên không ai không được tận hưởng; Thời gian luôn vận hành theo quy luật ngày đêm và các mùa không ai tác động được.
Đạo trời vốn cân bằng, không ai cản được, thuận thì sinh, nghịch thì tử; không phân biệt phú quý, hèn sang. Giầu, nghèo chỉ là tức thời; sinh tử là bất biến, sinh có hạn tử bất kỳ; một điều không bao giờ thay đổi là mọi điều luôn thay đổi.

Con người là một trong những sản phẩm của trời đất, tạo ra, nuôi dưỡng, cưu mang và ôm ấp; sinh, lão, bệnh, tử là quy luật của trời đất, không ai tránh được, mặc dù bầu trời là bao la, đất mẹ thì rộng khắp, nhưng bản thân mỗi con người luôn phải sống bon chen, eo hẹp trong không gian bao la và thời gian vô tận của trời đất.
Con người khi trong bụng mẹ đã phải bó mình, để cho nó phù hợp với không gian chật hẹp nhỏ bé, tối tăm; mặc dù có không thích, có đạp chân múa tay, kể cả minh quân, thánh nhân thì cũng không thoát ra khỏi khuôn khổ được. Đến khi đủ chín tháng mười ngày, thì thoát được ra khỏi bụng mẹ chật hẹp, nhưng lại phải đi qua quãng đường chật hẹp hơn. Lớn lên con người lại sống trong không gian chật hẹp; chen nhau để tồn tại hàng ngày; ganh đua nhau trong học tập, cạnh tranh nhau công việc, kể cả tình yêu; mong muốn của cuộc sống thì vô cùng, nhưng tài nguyên lại hạn chế, do vậy dễ tạo ra mâu thuẫn, xung đột.
Chính vì mưu sinh, cạnh tranh và bon chen trong cuộc sống nên đã tạo ra sự giàu nghèo, chính trong thời điểm tức thời đó, người giàu thì khuênh khoang, người nghèo thì cảm thấy hèn yếu. Nhưng một số người lại quên mất rằng, lúc gần đất xa trời có ai giàu có mà lại làm hai mộ đâu (trừ vua chúa ngày xưa, thường làm nhiều mộ giả, nhưng làm nhiều mộ giả của vua chúa ngày xưa đâu phải là vì giàu sang, mà vì sợ người đời đào phá bỏ đi đấy chứ). Kết cục là anh giàu có, oanh liệt một thời lại ở cùng với người lầm than, mà lâu nay có thể bị lãng quên. Cuối cùng mọi người lại phải ở một nơi chật hẹp, chen chúc hơn khi liền đất xa trời, nhưng chưa phải là lúc chật hẹp nhất; còn có lúc chật hẹp hơn đến mức mà cả hội đồng gia tiên chỉ ở vẻn vẹn một bàn thờ hay bát hương nhỏ xíu. Chính mọi thứ đều hạn chế, và phải ganh đua nên xã hội mới trường tồn, lớp sau nối đời trước.
Tiền không phải là tất cả, nhưng tất cả đều có thể mua bằng tiền. Tiền hay của cải vật chất, không phải là riêng của bất cứ ai; mà là của mọi người trong thiên hạ. Bất cứ ai có được nó, chỉ là tạm thời, vì nó ghé qua ở nhà mình tạm một thời gian, rồi nó lại bỏ mình để ra đi; nếu mình cố tình giữ nó lại lâu trong nhà, thì nó sẽ tạm ở lại, nhưng cuối cùng mình lại ra đi; tóm lại, mình không giữ được nó, mà cũng không nên tự hào nhiều vì nó. Chỉ có nhờ nó mà làm được các việc phúc đức trong đời, thì mới ở lại được với người đời theo thời gian. Mọi người có thể kiếm được tiền, nhưng tiêu tiền có ý nghĩa để tạo phúc đức cho đời sau thì nhất thiết người đấy phải có văn hóa. Một đại gia có nhiều tiền, thì tiền đấy đâu phải mình anh ta tạo ra, mà là tổng hợp của rất nhiều người làm ra (ví dụ: Tiền của ông chủ là do mọi người trong công ty làm ra, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trời đất); anh ta chỉ là người nắm được cơ hội, sử dụng thay người khác trong một thời gian ngắn, cuối cùng rồi của thiên lại trả địa cả thôi mà.
Cổ nhân đúc kết "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời", đấy là quy luật bất biến của trời đất, đạo trời luôn công bằng, nếu không công bằng thì một ngày nào đó sẽ có kẻ ngông cuồng định phá cả trời. Nhờ có đạo trời công bằng mà cuộc sống luôn tồn tại và phát triển. Có những người khi nghèo thì gia đình đầm ấm, tran hòa với cộng đồng, và quyết tâm vượt lên trên hiện tại; nhờ có cơ hội và nỗ lực mà trở nên giàu có, hay thăng quan tiến chức. Khi đạt được mong muốn là giàu có hay địa vị cao, thì lúc đó lại tạo ra mâu thuẫn, ví dụ: Đã có kinh tế hay địa vị ở vị trí cao hơn thì thời gian quây quần với gia đình và người thân lại ít và khác đi, trong khi vợ/chồng lại muốn được như ngày xưa; do đó một số người cứ nối tiếc cái không khí gia đình ngày xưa. Điều này thật khó, vì sao vậy? vì những người đó chưa hiểu quy luật của cuộc sống. Làm gì có chuyện có được nhiều tiền và địa vị cao hơn lại có nhiều thời gian bên nhau như thuở hàn vi.
Khi con người ta có tiền và quyền, thì lại phải làm mới mình để phù hợp với đẳng cấp mới, vô tình xa rời giá trị truyền thống. Nếu không có điểm dừng và quản lý tốt các mâu thuẫn phát sinh, thì tạo nên những bệnh mới, đấy là bệnh của nhà giàu, phá hoại cuộc sống gia đình, dòng họ, và là gánh nặng cho xã hội, như đua xe, hút hít, HIV/AIDS…đây phải chăng là hình phạt tu di tam tộc kiểu mới mà trời đất tạo ra cho những người vô đạo? Ngược lại, có những gia đình nghèo khổ bao đời, lam lũ lầm than, đến nỗi ngay cả bản thân họ và cộng đồng cứ tưởng là họ sinh ra để mà khổ, ngay cả giấc mơ họ cũng không dám, mà chỉ âm thầm ước mong lặng lẽ. Nhưng chính hoàn cảnh đó đã tạo ra những ý chí vượt khó phi thường, làm thay đổi cuộc sống gia đình và kể cả dòng họ.
Thế mới có chuyện nhiều nhà rất khó khăn, kể cả bố mẹ không biết chữ nhưng con cái lại học giỏi, giỏi người, giỏi nết; quy luật này khó mà giải thích bằng quy luật di truyền được; mà chỉ có thể tạm giải thích bằng quy luật của trời đất và quy luật của cuộc sống vậy. Đạo trời là công bằng vì nếu không như vậy, thì những gia đình như vậy khổ đến bao giờ đây? Và phải chăng những người giỏi người, giỏi nết sẽ thay thế cuộc sống và xã hội trong tương lai, theo quy luật của tự nhiên.
Thánh nhân xưa luôn bàn tới chữ “Tài và Đức”, đến ngày nay người đời bàn thêm chữ Tài, Tâm, Tầm. Tất cả các đức tính trên là những điều mà tất cả mọi người đều tôn vinh và mong muốn. Nhưng sự đời không đơn giản; vì có lúc, có nơi người có đủ Tài Đức, Tâm, Tầm lại chưa hẳn được trọng dụng, đôi khi, nhiều nơi người tài đức lại bị tiểu nhân làm nhục. vì sao lại như vậy? là vì thiếu đi chữ Phúc, phúc cho gia đình, phúc cho dòng họ, phúc cho quốc gia, và cho toàn thiên hạ. Có ai sống mà không sống bằng mệnh mình đâu chứ, nhưng mệnh mình do đâu mà ra, thì mọi người thường khó biết rõ. Mệnh tại Phúc, Phúc tại Tâm; có Tâm vẫn chưa đủ (giải thích ở trên); muốn tồn tại cùng với xu thế thời cuộc có phải cần có chữ Hòa không? Luôn phải sống “hài hòa với các mối quan hệ xã hội, hòa hợp với quy luật của trời đất”; Thật không đơn giản, có thể chỉ có thánh nhân mới làm được điều này. Nhưng các thánh nhân xưa, đâu phải ai cũng có cuộc sống vẹn toàn, sóng yên biển lặng, đôi khi cũng bị tiểu nhân ngăn cản và làm hại đấy chứ.
Không ai không quý trọng cuộc sống, kể cả con vật; nhưng cuộc sống không đơn giản, biết sống thì sống, không biết sống thì chết, nhưng biết chết thì lại sống mãi cùng non sông. Những người biết chết đúng lúc là những người qúy trọng giá trị cuộc sống và biết quy luật của cuộc sống và biết đạo. Ví như Trung túc Vương Lê Lai hy sinh mình để cứu chúa, để cứu cả một dân tộc là một người như vậy. Để lại tiếng thơm muôn thuở, hậu sinh hương khói ngàn thu. Ngược lại một đại Hoàng Đế như Tần Thủy Hoàng là một người hùng số một của Trung Quốc, trong lúc chiến tranh không sợ cái chết mà làm nên đại nghiệp; nhưng khi làm nên đại nghiệp lại sợ cái chết, do vậy mà mất rất nhiều thời gian, sức người, sức của để tìm thuốc trường sinh bất lão, nhưng cũng không tránh được cái chết, cái chết nhất là làm chết cả một triều đại huy hoàng trong chốc lát, để cho một số cận thần hả dạ, và người đời sau chê cười.
Hiểu được Đạo, để lại tấm gương cho hậu thế, giữa Trung túc Vương Lê Lai và Hoàng Đế Tần Thủy Hoàng có thể so sánh được, nhưng ai hơn ai thì mong người đời suy ngẫm. Có thể coi Trung túc Vương Lê Lại là bậc thánh nhân vậy, vì ông đã hiểu được đạo và giá trị cuộc sống, và biết hy sinh, và hy sinh đúng lúc, nếu ông không biết hy sinh đúng lúc, liệu ông có sống lâu hơn các bậc công thần khai quốc khác cùng thời với ông, như: Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi, và Nguyễn Mộng Tuân…khổng? Có thể ông hiểu được quy luật “Cáo chết cung treo” chăng?
Quy luật của trời đất và cuộc sống là công bằng; nhưng xét trên trong khoảng thời gian và không gian hẹp thì lại không như vậy. Trong cuộc sống có thể có bình đẳng, và văn minh; nhưng rất khó có công bằng; nhưng nhất thiết phải có “trật tự”; trật tự trong gia đình, dòng họ, cơ quan, một thể chế và toàn xã hội. Nhờ có trật tự mà cuộc sống mới bình yên và duy trì được các giá trị của cuộc sống. Muốn trật tự đó hay người khác thay đổi, thì mình phải thay đổi trước.
Cây cối vốn mọc trong rừng, ngoài đồng, ven sông suối, nhưng có cây lại được mọc trong chậu, và để trong nhà, có thể nó được đứng những nơi mà số đông người đời không được đến, và được nâng niu và chăm sóc kỹ lưỡng của con người danh tiếng, và nó trở nên vô giá. Vì sao lại có sự khác biệt như vậy? Vì những cây được ở trong nhà là do nó được con người hay khắc nghiệt của tự nhiên uốn nắn (rất đau đớn) theo sở thích của người sử dụng. Giá trị của những cây này cũng luôn biến đổi theo sở thích của chủ sở hữu, trào lưu thời cuộc, và thời gian. Những người đứng cùng những cây ở nơi mà số đông người đời không được đến, phải chăng họ cũng phải chịu uống nắn như nhưng cây đó chăng?
Cuộc đời thật ngắn gủi, sự sống chỉ là thoáng qua, cái chết chỉ là chuyển tiếp; giàu nghèo, sang hèn chỉ là tương đối, vẽ vang chỉ là quá khứ, địa vị là tạm thời; hiểu được đạo là bất diệt. Chỉ có việc làm phúc đức mới trường tồn lưu hậu thế. Thời gian có hạn, ai hiểu được quy luật của trời đất và cuộc sống, cố gắng vươn lên, mục tiêu cuối cùng không phải vật chất, mà là những việc làm nhân nghĩa, phúc đức thì sống mãi qua truyền miệng và sử sách. Nếu có điều kiện giúp đỡ được ai làm việc tốt, thì phải làm ngay, nếu không sau này muốn giúp thì lại không có điều kiện vì đã muộn; và nếu có giúp được ai cũng không nên tự kiêu, vì nếu mình không giúp thì tự mình đã mất cơ hội làm việc nghĩa. Giúp người không cầu danh lợi, vì cuộc sống đã trả ơn bạn rồi; vì nếu ai cũng có điều kiện và may mắn như mình, thì làm sao mình làm được việc nghĩa (việc tốt, việc thiện), và để người đời công nhận và ghi danh (dù mình có không nghĩ tới nhưng người đời vẫn công nhận); Do vậy nếu phải trả ơn thì chưa biết ai phải trả ơn ai?

Không tích lũy công đức, đời sau đau khổ hơn nữa

Vốn liếng ít ỏi mà chúng ta có sẽ bị tiêu đi mất, và nếu ta không tích tập công đức nào mới thì giống như ta tiêu hết tiền để dành mà không có tiền mới gửi vào. Nếu chúng ta chỉ làm cạn kiệt sự tích lũy công đức của mình thì sớm muộn gì chúng ta sẽ bị đắm chìm vào một đời sau còn đau khổ ghê gớm hơn nữa.
Người ta nói rằng nếu không có một sự tỉnh giác đúng đắn về cái chết thì chúng ta sẽ chết trong sự áp chế của sợ hãi và hối tiếc. Mối xúc cảm đó có thể đưa chúng ta đi vào các cõi thấp. Nhiều người tránh đề cập tới cái chết. Họ tránh né nghĩ tới điều tồi tệ nhất, vì vậy khi nó thực sự xảy tới họ bị bất ngờ và hoàn toàn không sẵn sàng. Sự thực hành Phật giáo khuyên chúng ta đừng nên không biết tới các bất hạnh và phải hiểu biết và đối mặt với chúng, chuẩn bị cho chúng ngay từ lúc bắt đầu. Nhờ đó, khi chúng ta thực sự kinh nghiệm nỗi đau khổ thì nó không phải là cái gì hoàn toàn không chịu đựng được.

Chỉ né tránh một vấn đề sẽ không giúp giải quyết nó mà thực ra có thể làm vấn đề tệ hại hơn. Một số người nhận xét rằng thực hành Phật giáo dường như nhấn mạnh tới sự đau khổ và tính chất bi quan. Tôi cho rằng điều này thật sai lầm. Thực hành Phật giáo thực sự cố gắng để chúng ta có được một sự an lạc vĩnh cửu – là điều không thể suy lường nổi đối với một tâm trí bình thường  – và tiệt trừ những đau khổ một lần cho mãi mãi. Các Phật tử không hài lòng với sự thành đạt chỉ duy trong đời này hay triển vọng của sự thành đạt trong những đời sau, mà thay vào đó, họ tìm kiếm một hạnh phúc tối hậu. Vì đau khổ là một thực tại do đó quan điểm căn bản của Phật giáo cho rằng sẽ không giải quyết được vấn đề nếu ta chỉ tránh né nó qua quýt. Điều nên làm là đối mặt với đau khổ, nhìn vào nó và phân tích, khảo sát nó, xác định các nguyên nhân của nó và tìm ra phương cách tốt nhất để có thể đối phó với nó.
Những người né tránh nghĩ tới điều bất hạnh thực ra lại bị nó tấn công, họ không được chuẩn bị và sẽ đau khổ hơn những người bản thân họ đã làm quen với những đau khổ, nguồn gốc của chúng và cách chúng phát khởi.
Một hành giả của Pháp nghĩ tưởng mỗi ngày về cái chết, quán chiếu về những nỗi khổ của con người, nỗi khổ của lúc sinh ra, nỗi khổ của sự già đi, nỗi khổ của bệnh tật, và nỗi khổ của sự chết. Mỗi ngày, các hành giả Mật thừa trải nghiệm quá trình sự chết trong sự quán tưởng. Điều ấy giống như trải qua cái chết về mặt tâm thức mỗi ngày một lần. Vì quen thuộc với nó, họ hoàn toàn sẵn sàng khi thực sự gặp gỡ cái chết. Nếu bạn phải đi qua một vùng rất nguy hiểm và ghê sợ, bạn nên tìm hiểu về những sự nguy hiểm và cách xử sự với chúng trước đó. Không tiên liệu về chúng là ngu dại. Dù có thích hay không bạn cũng phải đi tới đó, vì thế tốt nhất là chuẩn bị sẵn sàng để biết cách xử sự khi những khó khăn xuất hiện. Nếu bạn có một sự tỉnh thức hoàn hảo về sự chết thì bạn sẽ cảm thấy chắc chắn rằng bạn sắp chết một ngày gần đây.
Như vậy nếu khám phá ra rằng mình sắp chết trong ngày hôm nay hay ngày mai, nhờ sự thực hành tâm linh, bạn sẽ nỗ lực tự tháo gỡ mình ra khỏi các đối tượng trói buộc bằng cách vất bỏ những thứ sở hữu và coi mọi sự thành công thế tục như không có bất kỳ bản chất hay ý nghĩa nào.
Lợi lạc của sự tỉnh thức về cái chết là nó làm cho cuộc đời có ý nghĩa và nhờ cảm thấy hoan hỉ khi giờ chết tới gần, bạn sẽ chết không chút hối tiếc. Khi bạn quán chiếu về sự chắc chắn của cái chết nói chung và sự bất định của giờ chết, bạn sẽ làm mọi nỗ lực để tự chuẩn bị cho tương lai. Bạn sẽ nhận ra rằng sự thành đạt và những hoạt động của đời này không có bản chất và không quan trọng. Như vậy, sự làm việc cho lợi lạc lâu dài của bản thân bạn và những người khác sẽ có vẻ quan trọng nhiều hơn nữa, và cuộc đời bạn sẽ được dẫn dắt bởi nhận thức đó. Như Đức Milarepa đã nói, bởi chẳng sớm thì muộn bạn phải bỏ lại mọi sự sau lưng, thì tại sao không từ bỏ nó ngay bây giờ?
Mặc dù mọi nỗ lực của chúng ta, kể cả việc dùng thuốc men hay việc cử hành những lễ trường thọ, không ai có thể hứa hẹn sẽ sống quá một trăm năm. Có một vài trường hợp ngoại lệ, nhưng sau sáu mươi hay bảy mươi năm nữa, hầu hết những người đọc quyển sách này sẽ không còn sống. Sau một trăm năm, người ta sẽ nghĩ về thời đại chúng ta chỉ như một phần của lịch sử. Khi cái chết đến, điều duy nhất có thể giúp ích là lòng bi mẫn và sự thấu suốt về bản tánh của thực tại mà người ta đã đạt tới. Về lãnh vực này, khảo sát xem có một đời sống sau khi chết hay không là điều hết sức quan trọng.
Những đời quá khứ và tương lai hiện hữu vì những lý lẽ sau đây.
Những kiểu suy nghĩ nào đó từ năm ngoái, từ năm trước nữa, và ngay cả từ thời thơ ấu có thể được nhớ lại vào lúc này. Điều này chỉ rõ cho ta thấy là một cái biết đã hiện hữu trước cái biết hiện tại. Khoảnh khắc ý thức đầu tiên trong đời này không được sinh khởi mà không có một nguyên nhân, cũng không được sinh ra từ cái gì thường hằng hay vô tri. Một khoảnh khắc của tâm là cái gì trong sáng và thấu biết. Bởi thế cái có trước nó phải là cái gì đó trong sáng và thấu biết, là khoảnh khắc trước của tâm (tiền niệm). Chỉ có thể tin được rằng khoảnh khắc đầu tiên của tâm trong đời này đến từ không cái gì khác hơn là một đời trước.
Mặc dù thân xác vật lý có thể hành xử như một nguyên nhân thứ yếu của những biến đổi vi tế trong tâm, nhưng nó không thể là nguyên nhân chính yếu. Vật chất không bao giờ chuyển hóa thành tâm thức, và tâm thức không thể chuyển hóa thành vật chất. Vì thế, tâm thức phải đến từ tâm thức. Tâm thức của cuộc đời hiện tại này đến từ tâm thức của đời trước và là nguyên nhân của tâm thức trong đời sau. Khi bạn quán chiếu về sự chết và thường xuyên tỉnh thức về nó, đời bạn sẽ trở nên có ý nghĩa. Nhận ra những bất lợi to lớn của việc bám chấp có tính cách bản năng của chúng ta vào sự thường hằng, ta phải chống trả lại nó và tỉnh thức miên mật trước cái chết để ta sẽ được thúc đẩy thực hành Pháp nghiêm cẩn hơn nữa. Ngài Tsong-kha-pa nói rằng tầm quan trọng của sự tỉnh thức về cái chết không chỉ hạn chế ở giai đoạn bắt đầu.
Nó quan trọng suốt mọi giai đoạn của con đường; nó quan trọng ở lúc bắt đầu, ở giai đoạn giữa và cả ở giai đoạn cuối. Sự tỉnh thức về cái chết mà chúng ta phải nuôi dưỡng không phải là nỗi sợ hãi thông thường, bất lực về việc phải chia ly với những người thân và tài sản của chúng ta. Đúng đắn hơn, chúng ta phải học sợ hãi rằng ta sẽ chết mà chưa chấm dứt được các nguyên nhân của sự tái sinh trong các cõi thấp của luân hồi và sẽ chết mà không tích tập những nguyên nhân và điều kiện cần thiết cho sự tái sinh thuận lợi trong tương lai. Nếu chúng ta chưa hoàn thành được hai mục đích này, thì vào lúc chết, chúng ta sẽ bị áp chế bởi nỗi sợ hãi và ân hận ghê gớm.
Nếu chúng ta tiêu phí toàn bộ đời mình để miệt mài trong những hành động xấu xa phát sinh từ sự oán ghét và ham muốn, thì chúng ta gây nên tai họa không chỉ nhất thời mà còn dài lâu. Đó là bởi ta tích lũy và tàng trữ một khối lượng khổng lồ những nguyên nhân và điều kiện (duyên) cho sự đọa lạc của chính chúng ta trong những đời sau. Nỗi sợ hãi về điều đó sẽ kích động chúng ta để biến mỗi ngày trong cuộc đời mình thành cái gì có ý nghĩa. Khi đã có sự thức tỉnh về cái chết, chúng ta sẽ thấy được sự thành công và mọi sự của cuộc đời này thì không quan trọng, và sẽ làm việc cho một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là mục đích của sự thiền định về cái chết. Giờ đây, nếu chúng ta sợ hãi cái chết, chúng ta sẽ nỗ lực tìm kiếm một phương pháp chiến thắng nỗi sợ hãi và hối tiếc của mình khi chết.
Còn ngay bây giờ, nếu ta cứ tránh né nỗi sợ chết thì khi chết, chúng ta sẽ bị trói chặt bởi nỗi ân hận. Ngài Tsong-kha-pa nói rằng khi sự tham thiền của chúng ta về lẽ vô thường trở nên hết sức vững chắc và kiên cố thì mọi sự chúng ta gặp gỡ đều sẽ dạy chúng ta về sự vô thường. Ngài nói rằng tiến trình đi đến cái chết bắt đầu ngay từ khi thụ thai, và khi còn sống, cuộc đời chúng ta thường xuyên bị hành hạ bởi bệnh tật và sự già yếu. Khi còn khoẻ mạnh và tràn đầy sức sống, chúng ta không nên bị lừa phỉnh khi nghĩ rằng mình sẽ không chết.
Chúng ta không nên vui thú trong sự quên lãng khi chúng ta còn khoẻ; cách tốt nhất là chuẩn bị cho số phận tương lai của ta. Ví dụ như người đang rơi từ một dốc đá thật cao sẽ không sung sướng gì trước khi họ chạm đất. Ngay cả khi chúng ta còn sống, có rất ít thời gian cho sự thực hành Pháp. Dù cho chúng ta quả quyết là mình có thể trường thọ, có lẽ một trăm năm, nhưng ta đừng bao giờ nhượng bộ cái cảm tưởng là ta sẽ có thời gian để thực hành Pháp sau này. Chúng ta không nên bị chi phối bởi sự lần lữa, nó là một hình thức của tính lười biếng.
Một nửa đời người bị tiêu mất trong việc ngủ, và phần lớn thời gian còn lại chúng ta bị phóng tâm bởi những hoạt động thế gian. Khi ta già đi, sức mạnh thể chất và tinh thần giảm sút, và mặc dù chúng ta có thể mong muốn thực hành, nhưng đã quá muộn bởi chúng ta sẽ không có năng lực để thực hành Pháp. Đúng như một bản Kinh nói, nửa đời người tiêu phí trong giấc ngủ, mất mười năm khi ta còn nhỏ và hai mươi năm khi ta già, và thời gian ở khoảng giữa thì bị dày vò bởi những lo lắng, buồn phiền, đau khổ và thất vọng, vì thế khó có thời gian nào để cho sự thực hành Pháp.
Nếu ta sống một cuộc đời sáu mươi năm và suy nghĩ về tất cả thời gian ta trải qua khi còn bé, tất cả thời gian dùng để ngủ, và thời gian khi ta quá già, thì ta sẽ nhận ra rằng chỉ còn khoảng năm năm để ta có thể hiến mình cho sự thực hành nghiêm cẩn Phật Pháp.
Nếu chúng ta không dùng một nỗ lực cẩn trọng để thực hành Giáo Pháp, mà cứ sống như ta sống đời thường, thì chắc chắn là ta tiêu phí đời mình trong sự lười nhác không mục đích. Gung-thang Rinpoche nói, có phần diễu cợt: “Tôi mất hai mươi năm không nghĩ gì về việc thực hành Pháp, và sau đó mất hai mươi năm nữa để nghĩ về việc sẽ thực hành sau này, và rồi mất mười năm nghĩ về việc đã bỏ lỡ cơ may thực hành Pháp như thế nào”.

Thời gian và tiền bạc

Thời gian và tiền bạc là hai thực phẩm chính trong bữa ăn cuộc đời. Những nguyên liệu không thể thiếu, không ai có thể sinh tồn mà không có chúng.  Thời gian và tiền bạc cũng giống nhau ở điểm là: ai cũng than họ không có đủ thời gian và tiền bạc.
Về tiền, chúng ta mỗi người có thể làm chủ một số lượng khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều có cùng số lượng thời gian. Mỗi người đều có 24 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên đa số chúng ta đều than không có đủ thời gian để làm tất cả những việc ta cần làm.
Đúng thế, những việc ta muốn làm thì vô hạn. Vì thế nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể thực hành được tất cả mọi dự định của mình, hoặc bạn quá lo lắng về những việc bạn không thể thực hiện được thì lúc nào bạn cũng sẽ thấy mình không đủ thời gian. Trong những trường hợp đó, thời gian đã làm chủ bạn.

Vì thời gian có hạn, ta cần phải biết việc gì cần làm trước, việc gì sau và dùng thời gian ta có thể hoàn tất các công việc đó trong ngày. Lúc đó ta phải làm chủ thời gian chứ không phải chạy đuổi theo thời gian.
Thời gian không hề thiếu. Tôi có thể có ít thời gian, nhưng điều đó không cấm tôi phải bỏ bữa ăn. Có thể tôi không có đủ thời gian để sửa soạn một bữa thịnh soạn, nhưng với vài cọng rau, tôi cũng có thể làm thành một nồi súp. Không sao cả. Điều quan trọng là bạn cần phải biết sử dụng những gì bạn có trong tầm tay.
Đừng chỉ vì bạn nghĩ là mình không có thời gian, để không làm gì hết. Lúc nào bạn cũng có thể làm gì đó. Và làm cái gì đó, bắt đầu cái gì đó, hay chỉ là ý hướng đến một điều gì đó cũng đã làm thời gian của ta như nhiều thêm ra. Càng hoàn tất được nhiều việc, bạn càng có thêm nhiều thời gian.
Trái lại, nếu bạn cảm thấy mất bình tĩnh trước bao nhiêu việc phải làm, cuối cùng bạn sẽ phí thời gian ngồi lo sợ mình không có đủ thời gian để làm gì cả. Lúc đó tâm trạng bạn luôn nhắc mãi một điệp khúc: “Tôi không có đủ thời gian! Tôi không thể làm gì cả!”
Nếu bạn cảm thấy như mất phương hướng trước quá nhiều công việc, thì giải pháp là hãy đi từng bước một. Bạn chỉ cần dừng lại và tự hỏi mình: “Tôi sẽ sử dụng thì giờ như thế nào cho hữu hiệu trong một tiếng đồng hồ sắp tới?”
Điều đó không có gì khó. Mỗi ngày trước khi bắt tay vào việc ở sở hay ở nhà, tôi thường ghi xuống việc gì cần làm ngay trong ngày, và xếp theo thứ tự quan trọng của chúng.
Nhưng tôi cũng không quá chấp chặt vào danh sách đó. Nếu có việc khác quan trọng hơn bất ngờ xảy ra thì tôi sẽ lo chu toàn việc đó trước.
Căn bản là lúc nào cũng phải sáng suốt, biết việc gì trước, việc gì sau. Làm sao thực hiện điều đó? Các thiền sinh mỗi ngày đều dành ít thì giờ cho các hoạt động tâm linh, như là ngồi thiền, là hoạt động sẽ giúp ta phát triển sự sáng suốt, trí tuệ.
Một vị thiền sư Tây Tạng, Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche, vừa mới mất ở Bhutan, 84 tuổi. Ngài không bao giờ ngủ hơn 3 tiếng mỗi ngày, và dùng tất cả thời gian còn lại để phục vụ tha nhân. Ngài dạy Thiền, lo quản lý một thiền viện lớn đồng thời cũng là trường hợp cho trẻ em Tây Tạng, và tham gia các chương trình khác.
Những người này không phải là siêu nhân. Họ cũng chỉ là người như chúng ta. Vậy mà bằng cách nào đó lúc nào họ cũng có đủ thời giờ để chăm lo cho người khác. Làm được như thế, bạn như có tất cả thời gian bạn cần. Đúng là khi chúng ta dành thời gian cho người khác, hình như ta có nhiều thời gian hơn.
Bí quyết là mỗi lúc chỉ nên làm một công việc. Giống như vị thầy dạy Thiền của tôi. Ngài Maezumi đã nói khi tôi mới bắt đầu tu thiền: “Khi con đi thì chỉ lo đi”. Đơn giản mà hiệu quả.
Như với thời gian, ta cũng thường nghĩ là ta không có đủ tiền bạc. Nhưng có bao nhiêu thì mới gọi là đủ? Thực sự ta cần có bao nhiêu tiền bạc?
Đức Phật đã không cho các đệ tử của Ngài tích lũy của cải vật chất. Không có tủ lạnh để chứa thực phẩm, không có ngân hàng để tiết kiệm. Mỗi sáng các vị tu sĩ phải đi đến các làng lân cận để khất thực. Sự sống còn của họ tùy thuộc vào việc họ làm trong ngày. Mỗi ngày họ đều phải bắt đầu trở lại để kiếm sống. Họ dùng những gì được đặt vào bát họ với tất cả lòng biết ơn. Sống như thế giúp ta thấy mỗi ngày đều quan trọng, giúp ta thực sự sinh động, giúp ta bỏ được thói quen tự mãn, và hành động mà không bị kiềm chế bởi áp lực nào. Theo tôi, nghèo mà như thế là cách sống sung túc nhất.
Nhưng điều đó khác hẳn với cái sống đói nghèo. Khi ta sống trong sự nghèo khổ, ta luôn đói khát – ta cảm thấy không đủ ăn, không đủ áo mặc, không có nhà cửa. Ngược lại, nếu bạn sống trong xa hoa, bạn cảm thấy quá thừa mứa, như một người bội thực.
Người tu thiền tránh cả hai cách sống cực đoan này, mà theo con đường trung đạo của Đức Phật. Nói về tiền bạc, cách sống trung đạo giúp chúng ta tránh khỏi cảnh đói nghèo hay quá xa hoa, phung phí. Nó giúp ta thấy vừa đủ. Nếu ta chỉ cần có đủ, ta sẽ không gạt bỏ, đè nén các nhu cầu của mình, mà cũng không trở nên quá tham lam. Chúng ta sẽ chỉ tạo ra hay mua vừa đủ tiêu dùng – không ít hơn, không nhiều hơn. Chúng ta mua sắm quần áo để mặc, chứ không phải để dành trong tủ áo. Mua thực phẩm để tiêu thụ chứ không phải để hư thối trong tủ lạnh. Và chúng ta bù đắp lại những gì ta đã tiêu hao.
Điều đó cũng có thể áp dụng vào kinh doanh. Thí dụ như khi một doanh nghiệp đóng góp vào xã hội, nó sẽ giúp xã hội trở nên phát triển. Kết quả là ta sẽ có ít người thất nghiệp hơn và nhiều khách hàng hơn. Công ty của bạn cũng như các công ty khác trong vùng đều phát triển.
Ngược lại, các doanh nghiệp chỉ biết làm tiêu hao nguồn nguyên liệu, môi trường mà không có bù đắp sẽ chẳng còn khách hàng, và dần dần phải đóng cửa.
Tiền bạc là nguyên liệu tối cần không thể thiếu để sửa soạn bữa ăn cuộc đời, nhưng khi nó trở thành động lực, nguồn sống của chúng ta, khi bạn chỉ chăm chăm lo tích trữ nó, thì chúng ta đã biến nó thành chủ ta, làm cho bữa ăn cuộc đời của chúng ta kém ngon. Cuộc đời trở nên chua chát.
Trái lại nếu bạn chỉ cố gắng lo cho người khác, bạn cũng sẽ rơi vào cái bẫy khác. Lúc nào bạn cũng lo làm việc thiện. Bữa ăn xã hội lại có quá nhiều vị ngọt. Khi những điều đó xảy ra, người đầu bếp thiền phải biết thêm một thứ nguyên liệu khác, đó là trí tuệ.
Trong một mức độ nào đó, đôi khi thiếu thốn tiền bạc lại là điều tốt cho bạn. Vì vấn đề không phải là bạn có bao nhiêu tiền bạc. Khi không có đủ nguyên liệu, người ta vẫn có thể sửa soạn một bữa ăn ngon. Ngược lại khi có nhiều quá, người ta có khuynh hướng đổ hết tất cả mọi thứ vào với nhau – thịt, khoai, rau cùng với tất cả ngũ vị hương. Phương pháp đó cũng không tốt. Quá nhiều nguyên liệu, món ăn của bạn sẽ thiếu một mùi vị riêng biệt.

Tệ hại nhất là tham lam dục vọng là điều tốt hay xấu tuỳ theo cách biểu hiện

Có nhiều thói xấu tồn tại trong xã hội. Trong quan hệ giữa con người và con người thì tham lam là thói tệ hại nhất. Tham lam, xa xỉ, gièm pha là những thói xấu tiêu biểu. Tuy vậy, nếu tìm hiểu kỹ lưỡng thực chất thì dục vọng - nguyên nhân dẫn tới những hành vi trên - tự nó không hẳn đã là xấu. Bởi vì còn tuỳ trường hợp, tuỳ nơi tuỳ chỗ phát sinh, tuỳ mức độ nặng nhẹ và tuỳ theo mục đích mà lòng ham muốn đó hướng đến.
Ví dụ, người ta gọi lòng ham muốn tiền bạc là thói tham lam. Nhưng con người thì ai mà chẳng ham muốn, quý trọng tiền bạc. Vì vậy, bản thân việc thoả mãn nhu cầu về tiền bạc không phải là điều đáng phê phán.
Nhưng, nếu không phân biệt rạch ròi nơi chốn, trường hợp phát sinh lòng ham muốn đó, nếu mức độ ham muốn tiền bạc vượt quá giới hạn và nếu lầm lẫn mục đích tìm kiếm tiền bạc thì sẽ dẫn tới việc chạy theo đồng tiền trái đạo lý, và khi đó dục vọng sẽ trở thành thói xấu: thói tham lam.
Có một đạo lý làm ranh giới để phân biệt dục vọng tiềm ẩn ham thích tiền bạc có là thói xấu hay không. Nếu không vượt qua ranh giới này thì được coi là tiết kiệm, hợp lý và là đức tính tốt được khen ngợi mà con người thực sự phải nỗ lực.
Cũng tương tự như vậy khi đề cập tới sự xa xỉ. Để kết luận là thói xấu hay không, phải xem xét dựa trên việc người ta có sống đúng với thực chất của mình hay vượt quá địa vị, năng lực của chính họ.
Mong có tấm áo lành để mặc, mong có ngôi nhà thoáng mát khang trang để ở là dục vọng đương nhiên của con người. Vậy thì tại sao lại coi đó là xa xỉ, là thói xấu.
Tích luỹ tiền bạc, chi tiêu chừng mực, sống đúng với địa vị của mình phải được coi là điểm tốt của con người chứ, sao lại coi đó là keo kiệt, bủn xỉn?
Ngoài ra, giữa gièm pha và phê phán thì ranh giới chỉ như sợi tóc. Gièm pha là việc nói xấu và chê bai người khác. Phê phán là sự nhận định về những cái dở và phê bình người khác dựa trên cơ sở đạo lý mà mình tin.
Tuy vậy, khi chưa tìm ra được cái đúng tuyệt đối trong xã hội, khi trong cuộc sống "chính nghĩa mang tính tuyệt đối" vẫn chưa tồn tại thì khó có thể phán định ngay đúng sai, hay phải trái của một vấn đề bàn luận. Vì lẽ đó, mới nhìn thấy người này gièm pha người khác lập tức quy kết cho anh ta là kẻ thất đức thì thật vô lý. Khi quy kết việc tranh cãi là sự gièm pha, hay là sự phê phán nghiêm túc về một vấn đề thì phải tìm cho ra chính nghĩa mang tính tuyệt đối, chân lý mang tính phổ biển trong cuộc sống trước đã.
"THAM LAM" ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC CHÍNH LÀ NGUỒN GỐC CỦA MỌI THÓI XẤU
Ngoài ra, ranh giới giữa thói xấu và đức tốt chỉ là một sợi tóc. Ví dụ như thói ngạo mạn và lòng dũng cảm. Thói lỗ mãn và tính cương trực. Thói ngoan cố và lòng thành thực. Tính nông nổi và sự nhanh nhạy. Tố chất gốc tự nó không phải là xấu.
Tuy vậy, duy có một thứ, vốn dĩ tố chất gốc đã là xấu, cho nên bất cứ ở đâu, dù ở mức độ nào và nhằm mục đích ra sao, thì nó vẫn cứ là thói xấu. Thứ đó chính là tham lam.
Tham lam thường ngấm ngầm nảy sinh trong lòng. Tham vọng khiến người ta lập mưu tính kế hãm hại người khác nhằm thoả mãn sự ghen tức, hay xoa dịu nỗi bất hạnh của chính mình. Vì thế những kẻ ôm ấp lòng tham không hề đóng góp gì mà chỉ phá hoại hạnh phúc xã hội.
Ghen ghét, lường gạt, giả dối là những thói mà người ta thường gọi là lừa đảo bịp bợm. Đây là một thói đê tiện. Nhưng nó không phải là nguyên nhân đẻ ra sự tham lam. Ngược lại, phải thấy rằng chính tham lam đã sản sinh ra những thói đê tiện ấy mới đúng.
Tham lam là nguồn gốc của mọi thói xấu. Có thể nói: Không có thói xấu nào trong con người mà lại không xuất phát từ tham lam.
Thái độ cay cú ngờ vực, ghen tức, hèn nhát... cũng từ tham lam mà ra. Từ những hành vi thậm thụt, mật đàm, mưu mô cho đến việc lôi kéo bè cánh, ám sát, nổi loạn... tất cả đều phát sinh từ tham lam.
Trên phạm vi quốc gia, những tai hoạ do lòng tham gây ra khiến cho dân chúng đều trở thành nạn nhân. Khi đó thì mọi lợi ích công đều biến thành lợi ích riêng của một nhóm người.
NGHÈO KHỔ KHÔNG PHẢI LÀ NGUYÊN NHÂN
Trên đây tôi đã đề cập tới tác hại của lòng tham trong quan hệ giao tiếp giữa con người với con người.
Vậy thì cái gì là nguyên nhân chủ yếu khiến cho con người ghen tức trước hạnh phúc của người khác, cầu cho người khác gặp bất hạnh?
Phải chăng đó là do cuộc sống quá khổ cực, quá bế tắc?
Không, không phải như vậy. Nếu cho rằng gốc rễ của lòng tham lam là nghèo khổ thì tất cả những người nghèo khổ trong xã hội đều bày tỏ sự bất bình, những người giàu có trong xã hội sẽ trở thành cái "đích" của sự căm tức và như thế thì mọi quan hệ, giao tiếp trong thế giới này một ngày cũng không giữ nổi.
Nhưng thực tế thì khác hẳn. Con người dù có nghèo khổ đến đâu đi nữa, khi đã hiểu được vì sao mình nghèo khổ, vì sao mình hèn kém và nguyên nhân là tại mình thì sẽ không bao giờ họ mang thói đố kỵ bừa bãi đối với người khác. Bằng chứng có lẽ cũng không cần phải trưng ra đây.
Hiện nay, trong xã hội tồn tại sự chênh lệch giàu nghèo, sang hèn... cứ nhìn vào quan hệ giao tiếp giữa người với người thì sẽ rõ. Vì thế tôi mới nói rằng, phú quý giàu sang không phải là đối tượng của sự căm tức. Và nghèo khổ hèn kém không phải là nguồn gốc của sự bất bình.
LỜI THAN CỦA KHỔNG TỬ
Tham lam không bắt nguồn từ nghèo khó. Tham lam sẽ hoành hành khắp xã hội khi sự phát triển tự do về tinh thần, về hành động của con người bị cản trở, khi niềm hạnh phúc cũng như nỗi bất hạnh đều ngẫu nhiên mà xảy ra.
Ngày xưa, Khổng Tử có than rằng: "Đàn bà con gái và trẻ con là những kẻ khó dạy. Thân với họ thì họ nhờn, mà nghiêm với họ thì họ oán". Giờ đây ngẫm lại, có thể khẳng định là Đức Khổng Tử gieo hạt nào thì đã được quả đó.
Tâm hồn con người dù là nam hay là nữ đều giống nhau. Hơn nữa, nói tới "kẻ tiểu nhân" có lẽ Đức Khổng Tử muốn ám chỉ những người thấp cổ bé họng. Không có đạo lý nào quy định rằng đứa trẻ do người hạ đẳng sinh ra nhất định sẽ trở thành hạ đẳng. Những đứa trẻ mới lọt lòng, dù chúng sinh ra trong nghèo khó hay trong giàu sang, đều bình đẳng, không thể bị kỳ thị hay bị phân biệt.
Ngày nay những người rao giảng cho dân chúng phải nhẫn nhục, phải khom lưng quỳ gối, trói buộc tự do của những kẻ yếu - những người bị gọi là lũ đàn bà, kẻ tiểu nhân - họ là ai và ở quốc gia nào vậy? Hạt giống tự mình gieo, cuối cùng biến thành thói tham lam. Và kết cục là ngay cả Đức Khổng Tử cũng chỉ còn biết than trời.
Con người vốn dĩ nếu bị ai đó cướp đi tự do thể chất cũng như tinh thần thì sẽ căm tức người đó. Nhân quả ứng báo rõ ràng: gieo gì gặt nấy. Chẳng lẽ Khổng Tử tiên sinh - người được tôn là bậc thánh nhân - mà cũng không hiểu được bản chất của sự vật, không biết phải làm cách nào để giải quyết, lại chỉ biết buộc miệng than vãn... thì quả là không đáng khâm phục.
Trước hết, phải hiểu rằng thời đại mà Khổng Tử đã sống là thời đại mông muội, chưa khai hoá, cách thời đại hiện nay hơn hai ngàn năm. Và chủ ý của những lời dạy của Khổng Tử cũng là những điều phù hợp với phong tục, lòng người thời đó. Để nắm được quần chúng, để duy trì sự cai trị, dù biết đó không phải là thượng sách, nhưng cần phải chứng tỏ uy quyền bằng cách trói buộc dân chúng. Nếu như thực sự Khổng Tử là bậc thánh nhân, có khả năng tiên kiến tương lai hậu thế thì chắc chắn ngài không bao giờ nghĩ rằng quyền uy thời đó là tuyệt đối mãi mãi.
Vì vậy, những người nghiên cứu lời dạy của Khổng Tử để áp dụng cho đời sau, cần phải suy nghĩ về bối cảnh lịch sử mà đánh giá. Tôi không thể coi những người định bê nguyên xi những lời dạy cách đây cả hai nghìn năm áp vào thời đại ngày nay là những người hiểu biết đầy đủ về giá trị của sự vật.
THỰC TRẠNG HẬU CUNG, NƠI THÓI THAM LAM HOÀNH HÀNH
Những cung tần, mỹ nữ trong hậu cung hầu hạ lãnh chúa trong thời đại phong kiến ở nước ta là ví dụ rõ ràng nhất về sự tham lam hoành hành, về sự cản trở giao tiếp.
Chốn hậu cung là nơi cư ngụ của các cung tần, mỹ nữ để hầu hạ các bậc lãnh chúa thất đức. Các cung tần, mỹ nữ có chăm chỉ chuyên cần cũng không được khen, có lười nhác cũng không bị phạt. Có can ngăn cũng bị quở trách, mà không can ngăn cũng bị quở trách. Tóm lại, đó là một thế giới khác hẳn với xã hội bình thường, là nơi mà các cung tần mỹ nữ dùng mọi thủ đoạn lấy lòng lãnh chúa, triệt hạ lẫn nhau, miễn sao thoả mãn giấc mộng được lãnh chúa sủng ái.
Sống trong thế giới như thế, tính cách con người trở nên khác thường, vui buồn, cáu giận đều bị biến dạng. Thấy đồng cung được sủng ái là lập tức ghen ghét đố kỵ, rồi căm tức luôn cả lãnh chúa. Trung, tín, tiết nghĩa chỉ còn là mỹ từ. Lãnh chúa có ốm thập tử nhất sinh thì cũng chỉ vì đố kỵ và sợ bị đồng cung gièm pha mà bỏ mặc chẳng thèm chăm sóc. Tham lam, ghen tức trở nên cực đoan đã dẫn tới những vụ giết người bằng thuốc độc. Nếu có bảng thống kê các vụ đầu độc từ trước tới nay, thì sẽ thấy rõ các hành động tội ác trong hậu cung đã hoành hành dữ dội như thế nào so với các vụ đầu độc ngoài xã hội. Chúng ta cần phải thấy tham vọng khủng khiếp đến nhường nào.
NHẬT BẢN HIỆN NAY VẪN CHƯA THOÁT KHỎI TÍNH CHẤT "HẬU CUNG"
Thói xấu xa tệ hại nhất trong xã hội là tham lam. Nguồn gốc của tham lam là ở chỗ trói buộc tự do. Vì thế, ngôn luận phải được tự do. Hoạt động của con người không thể bị cản trở.
Thử so sánh giữa xã hội Nhật Bản và xã hội các nước Âu Mỹ xem sao. Xã hội nào gần giống với tình trạng trong chốn hậu cung nói trên? Chẳng phải là xã hội Nhật Bản đó sao. Ở dân chúng Anh, Mỹ không phải là không có thói tham lam, xa xỉ, lỗ mãng... Họ cũng không thiếu những kẻ lừa đảo, bịp bợm. Và không phải là cái gì trong phong tục của họ cũng đều tốt đẹp cả.
Nhưng có một điểm không thể nói là giống hệt với tình trạng của xã hội Nhật Bản. Đó là tham vọng. Trong xã hội văn minh người ta không đến nỗi ghen ghét, căm tức trước hạnh phúc của người khác và ngấm ngầm mong cho người khác gặp bất hạnh như con người trong xã hội Nhật Bản.
Hiện nay, trong xã hội Nhật Bản, những người hiểu biết, các thức giả đang nói lên tiếng đòi tự do xuất bản, tự do ngôn luận, yêu cầu lập viện dân biểu. Và sao và hoàn cảnh nào buộc những thức giả phải lên tiếng như vậy?
Xã hội không thể là chốn hậu cung như trước đây. Nhân dân không thể như những cung tần, mỹ nữ. Chỉ có đoạn tuyệt với tham lam, lòng đố kỵ, ghen ghét và được tự do mới có thể giành lại và dấy lên dũng khí ganh đua lẫn nhau. Hạnh phúc hay bất hạnh, danh dự hay nhơ nhuốc... phải làm sao để đó là kết quả đương nhiên từ nỗ lực của mọi cá nhân.
Cản trở tự do ngôn luận, trói buộc hoạt động của dân chúng đa phần đều liên quan đến chính sách của chính phủ. Và ai cũng đổ hết cho nền chính trị. Nhưng thực ra không hẳn là vậy. Chính trong nhân dân cũng thải ra nhiều thứ độc hại không kém. Nếu chỉ cải cách chính trị không thôi cũng không thể gột sạch những thứ độc hại đó ngay được. Tôi xin bổ sung thêm hai, ba điểm nữa.
MẶT ĐỐI MẶT MỚI VỠ LẼ...
Thông thường, con người cảm thấy vui sướng trong quan hệ, trong giao tiếp với người khác. Vậy mà cũng có người lại cảm thấy ghét giao tiếp. Trong xã hội, có những người khác thường, họ cố tình chuyển về sống trong rừng núi, xa lánh cuộc sống. Và người ta gọi họ là những người "ẩn cư". Hoặc có những người không đến mức cực đoan đến vậy, nhưng không thích giao tiếp với xã hội, ở lỳ trong nhà không bao giờ ló mặt ra ngoài và lấy làm đắc ý "lánh đời ô trọc".
Tư thế của những loại người này không phải chỉ là do không bằng lòng với đường lối của chính phủ. Mà cái chính là họ không có dũng khí trong các mối quan hệ với sự việc vì ý chí yếu đuối. Họ không có lòng bao dung vì thiếu sự độ lượng. Họ không thể thu nhận được người. Và người ta cũng không thu nhận được họ. Cả hai phía từng bước từng bước tránh mặt nhau. Kết cục là cả hai phía đều mang ý nghĩ phân biệt, nhìn nhau bằng con mắt xa lạ. Và rồi chẳng biết tự lúc nào trở thành kẻ thù của nhau. Bên nào cũng mang những bất mãn đối với nhau. Không có gì bất hạnh hơn thế. Mặt khác họ cũng chẳng muốn biết, muốn hiểu đầy đủ về đối phương. Chỉ nghe thông tin một chiều mà không kiểm chứng, cũng không thèm xác nhận. Chỉ cần thấy đối phương suy nghĩ khác mình là không còn giữ được bình tĩnh... căm ghét đố kỵ xuất hiện ngay cả trong ý nghĩ.
Văn bản thư từ nhiều khi không giải quyết được vấn đề ban thảo mà còn gây hiểu sai, hiểu lầm. Nhưng khi gặp gỡ trực tiếp thì lại giải quyết được mọi thứ. Lúc đó con người mới vỡ lẽ "vậy mà cứ nghĩ xấu về nhau...", hoặc "không gặp trực tiếp thì đúng là sẽ gây nên tai hoạ cho nhau...".
Lo lắng, quan tâm lẫn nhau vốn là tình cảm bẩm sinh ở trong con người. Sự thật tình, thật lòng sẽ làm hai phía xích lại với nhau. Và chỉ khi đó thì sự đố kỵ, lòng ghen tức mới biến mất.
Từ xưa tới nay có vô số những vụ ám sát. Tôi vẫn thường nói thế này: "Nếu như cả hai phía ám sát và bị ám sát cùng ngồi lại với nhau, có cơ hội trao đổi thẳng thắn, không che giấu, không úp mở những suy nghĩ của cả hai bên, thì cho dù có là kẻ thù không đội trời chung của nhau, họ nhất định sẽ hoà giải và không những thế mà có khi lại trở thành bạn hữu."
Mới hay là việc cản trở tự do ngôn luận, tự do hành động, hoàn toàn không phải chỉ là lỗi do chính phủ, mà còn là lỗi trong dân chúng. Ngay cả trong giới học giả cũng vậy.
Năng lượng làm cuộc đời sống động khó có thể sinh ra nếu không tiếp xúc, tiếp cận với sự vật. Phải làm sao trong các mối quan hệ, các cuộc giao tiếp mọi người đều tự do nói lên suy nghĩ của mình, tự do hành động. Và sự suy nghĩ ấy, hành động ấy là kết quả của việc tự lựa chọn bất kể con người đó thuộc đẳng cấp nào, quý tộc, giàu có hay hạ đẳng, nghèo hèn.
Không ai có thể cản trở tự do của con người.

Disqus Shortname

Ads Inside Post

Comments system

Arsip

Hey, we've just launched a new custom color Blogger template. You'll like it - https://t.co/quGl87I2PZ
Join Our Newsletter